Có phải mọi tội phạm đều phải chịu hình phạt?

Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Hình phạt được Nhà nước sử dụng như là công cụ hữu hiệu trong phòng chống tội phạm để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội và lợi ích hợp pháp của công dân.Tính nghiêm khắc của hình phạt thể hiện ở chỗ người bị kết án có thể bị tước bỏ hoặc bị hạn chế quyền tự do, quyền về tài sản, về chính trị thậm chí cả quyền sống. Vậy có phải mọi tội phạm đều phải chịu hình phạt? Mời quý bạn đọc theo dõi nội dung trình bày dưới đây của LVN Group !!

I. Hình phạt là gì?

Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, li ích của người, pháp nhân thương mại đó.

 Mục đích của hình phạt

Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

Các hình phạt đối với người phạm tội

1. Hình phạt chính bao gồm:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền;
c) Cải tạo không giam giữ;
d) Trục xuất;
đ) Tù có thời hạn;
e) Tù chung thân;
g) Tử hình.
2. Hình phạt bổ sung bao gồm:
a) Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định;
b) Cấm cư trú;
c) Quản chế;
d) Tước một số quyền công dân;
đ) Tịch thu tài sản;
e) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính;
g) Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính.
3. Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung.

Có phải mọi tội phạm đều phải chịu hình phạt?

II. Có phải mọi tội phạm đều phải chịu hình phạt?

Trách nhiệm pháp lý của chủ thể vi phạm pháp luật là hậu quả pháp lý bất lợi đối với chủ thể vi phạm pháp luật thể hiện qua việc họ phải gánh chịu những biện pháp cưỡng chế nhà nước đã được quy định trong phần hình phạt của các quy phạm pháp luật vì sự vi phạm pháp luật của họ.
Theo đó, tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm mà cá nhân, tổ chức vi phạm phải gánh chịu những loại trách nhiệm pháp lý khác nhau như: trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm kỷ luật, theo hướng dẫn pháp luật.

Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội. Mọi hành vi phạm tội do người thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lí nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tiễn vẫn có những trường hợp người phạm tội không phải chịu hình phạt. Đó là những trường hợp có tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự, được miễn hình phạt hoặc được miễn chấp hành hình phạt.

Trường hợp 1: Người vi phạm không có năng lực hành vi dân sự.
Căn cứ: Điều 21 Bộ luật hình sự 2015 quy định về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự như sau: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Trường hợp 2:  Người vi phạm chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm pháp lý.
Là những người dưới 14 tuổi, căn cứ Điều 12 Bộ luật hình sự 2015.
Trường hợp 3: Miễn trách nhiệm pháp lý
Căn cứ: điểm c khoản 2 và khoản 3 Điều 29 Bộ luật hình sự 2015, được bổ sung bởi Điểm a Khoản 1 Điều 2 BLHS 2017 quy định về trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự như sau:
“c) Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
3. Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây tổn hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người uỷ quyền của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự”
Trường hợp 4: Hết thời hiệu truy cứu TNHS (Căn cứ: quy định tại Điều 27 Bộ luật hình sự 2015)
Trường hợp 5: Thực hiện hành vi vi phạm do sự kiện bất ngờ
Căn cứ: Điều 20 Bộ luật hình sự 2015 quy định như sau: “Người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”
Trường hợp 6: Thực hiện hành vi vi phạm do phòng vệ chính đáng (Căn cứ Điều 22 Bộ luật hình sự 2015)
– Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của đơn vị, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
– Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo hướng dẫn của Bộ luật này.
Trường hợp 7: Thực hiện hành vi vi phạm trong tình thế cấp thiết (Căn cứ Điều 23 Bộ luật hình sự 2015)
– Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây tổn hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của đơn vị, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một tổn hại nhỏ hơn tổn hại cần ngăn ngừa.
Hành vi gây tổn hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.
– Trong trường hợp tổn hại gây ra rõ ràng vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết, thì người gây tổn hại đó phải chịu trách nhiệm hình sự.
Trường hợp 8: Thực hiện hành vi gây tổn hại trong khi bắt giữ người phạm tội (Căn cứ Điều 24 Bộ luật hình sự 2015)
– Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây tổn hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm.
– Trường hợp gây tổn hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây tổn hại phải chịu trách nhiệm hình sự.
Trường hợp 9: Hành vi vi phạm do rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ (Căn cứ Điều 25 Bộ luật hình sự 2015)
– Hành vi gây ra tổn hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng trọn vẹn biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm.
– Người nào không áp dụng đúng quy trình, quy phạm, không áp dụng trọn vẹn biện pháp phòng ngừa mà gây tổn hại thì vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.
Trường hợp 10: Thực hiện hành vi vi phạm khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (Căn cứ Điều 26 Bộ luật hình sự 2015)
– Người thực hiện hành vi gây tổn hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện trọn vẹn quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
– Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự.
LVN Group hy vọng đã hỗ trợ để có thể giúp bạn hiểu thêm về vấn đề có phải mọi tội phạm đều chịu hình phạt theo hướng dẫn của pháp luật. Nếu có gì câu hỏi quý bạn đọc vui lòng liên hệ với chúng tôi qua Website: lvngroup.vn

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com