Điều 22 Bộ luật Dân sự năm 2015

Nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự, cần phải có các quy định về những chủ thể đặc biệt như người mất năng lực hành vi dân sự, bởi lẽ khác với những chủ thể khác, việc mất năng lực hành vi dân sự sẽ kéo theo những hệ quả pháp lý khi mà trách nhiệm và nghĩa vụ của họ sẽ không giống với các chủ thể thường. Về vấn đề này, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng đã có quy định về Mất năng lực hành vi dân sự tại Điều 22.

Điều 22 Bộ luật Dân sự năm 2015

 1. Người mất năng lực hành vi dân sự

Theo Điều 22 Bộ luật Dân sự năm 2015, người trên 18 tuổi thuộc nhóm người mất năng lực hành vi dân sự khi thoả mãn các điều kiện sau:

  • Cá nhân này mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác dẫn đến không thể nhận thức, làm chủ được hành vi
  • Người có quyền, nghĩa vụ liên quan hoặc của đơn vị, tổ chức hữu quan yêu cầu tuyên bố cá nhân bị mất năng lực hành vi dân sự. Người có quyền, nghĩa vụ liên quan như chồng hoặc vợ, con hoặc chủ nợ, con nợ của người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác mà không có khả năng nhận thức, làm chủ hành vi hoặc người gây tổn hại hoặc người bị tổn hại do hành vi của người mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác này;
  • Có kết luận giám định pháp y tâm thần về khả năng nhận thức, làm chủ hành vi. Chỉ có đơn vị y tế có thẩm quyền mới được phép kết luận giám định pháp y tâm thần;  
  • Toà án ra quyết định tuyên bố cá nhân là người mất năng lực hành vi dân sự.

Vì vậy, một người bị coi là mất năng lực hành vi dân sự khi có quyết định của Tòa án tuyên bố người này bị mất năng lực hành vi dân sự dựa trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần.

Ví dụ: Sau tai nạn hoặc bị thảm họa thiên tai, nạn nhân do bị thương tích hay bị hoảng loạn không còn nhận thức, làm chủ được hành vi của mình và tổ chức giám định pháp y tâm thần đã có kết luận chính thức thì mọi giao dịch dân sự của cá nhân đó phải do người uỷ quyền theo pháp luật xác lập, thực hiện.

Có thể thấy, do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác, những người này không có khả năng để nhận thức và hành động một cách đúng đắn theo ý chí của mình, nên họ không có đủ khả năng để hiểu và làm chủ được hành vi của mình. Cho nên, mọi giao dịch dân sự của những người này đều phải do người uỷ quyền theo pháp luật xác lập và thực hiện.

Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của đơn vị, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.

Ví dụ: Anh T là người mắc bệnh tâm thần nhưng sau thời gian điều trị đã khỏi bệnh, đã có khả năng nhận thức, làm chủ được hành vi của mình. Khi có yêu cầu của anh T hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của đơn vị, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố anh T mất năng lực hành vi dân sự. Anh T có quyền tham gia xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự.

2. Người mất hành vi dân sự khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự

Người mất năng lực hành vi dân sự sẽ tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự thông qua người uỷ quyền theo pháp luật. Người uỷ quyền theo pháp luật của người mất năng lực hành vi dân sự là người giám hộ của người này. Người giám hộ được xác định theo Điều 53 Bộ luật Dân sự năm 2015. Có thể thấy, theo hướng dẫn của pháp luật dân sự những người bị mất năng lực hành vi dân sự vẫn có trọn vẹn năng lực pháp luật dân sự. Để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người người bị mất năng lực hành vi dân sự khi họ không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, Bộ luật Dân sự đã quy định: khi tham gia dịch lưu dân sự phải do người uỷ quyền theo pháp luật xác lập, thực hiện.

3. Trường hợp một người bị mất năng lực hành vi dân sự mà lại thực hiện giao dịch dân sự thì giao dịch đó có hiệu lực không?

Theo quy định tại Điều 125 Bộ luật Dân sự năm 2015 về giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện:

Khi giao dịch dân sự do người mất năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu cầu của người uỷ quyền của người đó, Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu nếu theo hướng dẫn của pháp chuyên giao dịch này phải do người uỷ quyền của họ xác lập, thực hiện hoặc đồng ý. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự nêu trên sẽ không bị vô hiệu trong trường hợp giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó;

Vì vậy, giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự chỉ có hiệu lực khi đó là giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu hàng ngày của người đó. Mặt khác những giao dịch khác của người đó phải do người uỷ quyền theo pháp luật xác lập, thực hiện thì mới được coi là có hiệu lực.

 

Người mất năng lực hành vi dân sự là một đối tượng đặc biệt cần được lưu tâm, do đó, quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 về đối tượng này là phù hợp với thực tiễn, bao quát các vấn đề có thể xảy ra trong cuộc sống hàng ngày.

Trên đây là toàn bộ nội dung giới thiệu của LVN Group về quy định tại Điều 22 Bộ luật Dân sự năm 2015 gửi đến quý bạn đọc để cân nhắc. Trong quá trình nghiên cứu nếu như quý bạn đọc còn câu hỏi cần trả lời, quý bạn đọc vui lòng truy cập trang web: https://lvngroup.vn để được trao đổi, hướng dẫn cụ thể.

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com