Hòa giải hiện nay là một trong những phương pháp được sử dụng phổ biến khi có tranh chấp xảy ra. Hòa giải cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên để đạt được sự thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau những mâu thuẫn, những tranh chấp, vi phạm pháp luật theo hướng dẫn.
1. Hòa giải ở cơ sở là gì
Theo khoản 1 Điều 2 Luật Hoà giải ở cơ sở 2013, hòa giải ở cơ sở là việc hòa giải viên hướng dẫn, giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận, tự nguyện giải quyết với nhau các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo hướng dẫn của Luật Hoà giải ở cơ sở 2013.
Trong đó:
– Người được bầu làm hòa giải viên phải là công dân Việt Nam thường trú tại cơ sở, tự nguyện tham gia hoạt động hòa giải và có các tiêu chuẩn sau:
+ Có phẩm chất đạo đức tốt; có uy tín trong cộng đồng dân cư;
+ Có khả năng thuyết phục, vận động nhân dân; có hiểu biết pháp luật.
– Cơ sở được hiểu là thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố và cộng đồng dân cư khác (gọi chung là thôn, tổ dân phố).
– Các bên ở đây là cá nhân, nhóm cá nhân, gia đình, nhóm gia đình, tổ chức có mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật theo hướng dẫn của Luật Hoà giải ở cơ sở 2013
(Căn cứ khoản 2, 3 Điều 2, Điều 7 Luật Hoà giải ở cơ sở 2013)
2. Phạm vi hòa giải ở cơ sở
Căn cứ khoản 1 Điều 3 Luật Hoà giải ở cơ sở 2013, khoản 1 Điều 5 Nghị định 15/2014/NĐ-CP, hòa giải ở cơ sở được tiến hành đối với các mâu thuẫn, tranh chấp, vi phạm pháp luật sau:
– Mâu thuẫn giữa các bên (do khác nhau về quan niệm sống, lối sống, tính tình không hợp hoặc mâu thuẫn trong việc sử dụng lối đi qua nhà, lối đi chung, sử dụng điện, nước sinh hoạt, công trình phụ, giờ giấc sinh hoạt, gây mất vệ sinh chung hoặc các lý do khác);
– Tranh chấp phát sinh từ quan hệ dân sự như tranh chấp về quyền sở hữu, nghĩa vụ dân sự, hợp đồng dân sự, thừa kế, quyền sử dụng đất;
– Tranh chấp phát sinh từ quan hệ hôn nhân và gia đình như tranh chấp phát sinh từ quan hệ giữa vợ, chồng; quan hệ giữa cha mẹ và con; quan hệ giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa anh, chị, em và giữa các thành viên khác trong gia đình; cấp dưỡng; xác định cha, mẹ, con; nuôi con nuôi; ly hôn;
– Vi phạm pháp luật mà theo hướng dẫn của pháp luật những việc vi phạm đó chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, xử lý vi phạm hành chính;
– Vi phạm pháp luật hình sự trong các trường hợp sau:
- Không bị khởi tố vụ án theo hướng dẫn tại Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 (hiện hành là Điều 157 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (sửa đổi 2021) và không bị đơn vị nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo hướng dẫn của pháp luật;
- Pháp luật quy định chỉ khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại, nhưng người bị hại không yêu cầu khởi tố theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 (hiện hành là Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (sửa đổi 2021) và không bị đơn vị nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo hướng dẫn của pháp luật;
- Vụ án đã được khởi tố
+ Nhưng sau đó có quyết định của đơn vị tiến hành tố tụng về đình chỉ điều tra theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 164 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 (hiện hành là khoản 1 Điều 230 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (sửa đổi 2021)hoặc đình chỉ vụ án theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 169 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 (hiện hành là khoản 1 Điều 248 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (sửa đổi 2021);
+ Và không bị đơn vị nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo hướng dẫn của pháp luật;
- Vi phạm pháp luật bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn theo hướng dẫn tại Nghị định 111/2013/NĐ-CP (hiện hành là Nghị định 120/2021/NĐ-CP) hoặc có đủ điều kiện để áp dụng biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính theo hướng dẫn tại Chương II Phần thứ năm của Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012;
– Những vụ, việc khác mà pháp luật không cấm.
3. Các trường hợp không hòa giải ở cơ sở
Theo khoản 2 Điều 5 Nghị định 15/2014/NĐ-CP thì không hòa giải các trường hợp sau:
– Mâu thuẫn, tranh chấp xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng;
– Vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình mà theo hướng dẫn của pháp luật phải được đơn vị nhà nước có thẩm quyền giải quyết, giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội;
– Vi phạm pháp luật mà theo hướng dẫn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, trừ các trường hợp quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 5 Nghị định 15/2014/NĐ-CP;
– Vi phạm pháp luật mà theo hướng dẫn phải bị xử lý vi phạm hành chính, trừ các trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều 5 Nghị định 15/2014/NĐ-CP;
– Mâu thuẫn, tranh chấp khác không được hòa giải ở cơ sở quy định tại điểm d khoản 1 Điều 3 Luật Hòa giải ở cơ sở 2013, bao gồm:
+ Hòa giải tranh chấp về thương mại được thực hiện theo hướng dẫn của Luật Thương mại 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành;
+ Hòa giải tranh chấp về lao động được thực hiện theo hướng dẫn của Bộ luật Lao động 2019 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
4. Các bước thực hiện hòa giải cơ sở
Bước 1: Hòa giải viên là người chủ trì buổi hòa giải
Trước tiên hòa giải viên sẽ nêu mục đích, ý nghĩa của việc hòa giải; thống nhất với các bên về cách thức thực hiện buổi hòa giải. Trong buổi hòa giải thì hòa giải viên cần tạo ra không khí cởi mở, chân thành, không áp đặt ý chí của hòa giải viên lên các bên tranh chấp.
Bước 2: Các bên có liên quan trình bày nội dung vụ, việc
– Từng bên trình bày lại nội dung sự việc, khi đã trình bày xong thì các bên có thể bổ sung thêm ý kiến cũng như đưa ra luận cứ, quan điểm của mình;
– Những người có quyền lợi, có nghĩa vụ liên quan sẽ được phát biểu ý kiến, quan điểm của họ về vấn đề đang mâu thuẫn, tranh chấp.
Bước 3: Hòa giải viên phân tích vụ việc, dẫn chiếu các quy định của pháp luật
– Hòa giải viên sẽ tổng hợp lại vấn đề, phân tích vụ việc và dẫn chiếu các quy định của pháp luật về vấn đề đó dựa trên sự trình bày của các bên.
– Tiến hành phân tích cho các bên hiểu rõ về quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ của mình từ để đó thấy được hành vi của mình đúng ở điểm nào và sai ở điểm nào.
– Sau đó sẽ đưa ra các phương án để giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp để các bên cân nhắc; các bên có quyền trình bày phương án để giải quyết tranh chấp của mình.
– Phân tích cho các bên hiểu rõ lợi ích khi hòa giải thành; hậu quả pháp lý nếu như các bên tiếp tục tranh chấp hoặc có hành vi sai trái.
Bước 4: Kết thúc phiên hòa giải
– Trường hợp hòa giải thành: đây là trường hợp mà các bên đã trao đổi, thỏa thuận để thống nhất được phương án giải quyết tranh chấp, hòa giải viên sẽ lập biên bản hòa giải thành các bên và hòa giải viên cùng ký tên vào đó.
– Trường hợp hòa giải không thành: hòa giải viên sẽ hướng dẫn các bên có quyền yêu cầu tiếp tục hòa giải hoặc là yêu cầu đơn vị có thẩm quyền giải quyết theo hướng dẫn. Nếu các bên có yêu cầu thì hòa giải viên sẽ lập biên bản hòa giải không thành.
– Chỉ thỏa thuận được một phần: hòa giải viên tiếp tục thuyết phục các bên thỏa thuận tiếp nếu thống nhất được thì lập biên bản hòa giải thành, nếu không thì lập biên bản hòa giải không thành.
5. Vai trò, ý nghĩa của hòa giải ở cơ sở
Thứ nhất: Hòa giải ở cơ sở góp phần giải quyết kịp thời, từ gốc mâu thuẫn, xích mích, các tranh chấp trong gia đình, cộng đồng dân cư, từ đó khôi phục, duy trì, củng cố tình đoàn kết trong nội bộ nhân dân, phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, tội phạm, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, tránh để chuyện bé xé ra to, “cái sảy nảy cái ung”, từ tranh chấp dân sự chuyển thành phạm tội hình sự. Giải quyết tranh chấp thông qua hòa giải, quan hệ tốt đẹp giữa các bên được duy trì, góp phần giảm bớt khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện của nhân dân, tiết kiệm thời gian, chi phí, công sức của nhân dân cũng như của Nhà nước.
Thứ hai:Hòa giải ở cơ sở góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý xã hội. Đặc trưng cơ bản của hòa giải là bảo đảm quyền tự định đoạt của các bên trong giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn. Vì vậy, hòa giải là một phương thức để thực hiện dân chủ. Thông qua hòa giải, đặc biệt là hòa giải ở cơ sở, vai trò tự quản của người dân được tăng cường. Điều đó có ý nghĩa rất cần thiết góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
Thứ ba: Hòa giải ở cơ sở góp phần nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Trong quá trình hòa giải, bên cạnh việc vận dụng các công cụ khác (văn hóa, đạo đức, thuần phong, mỹ tục, đạo lý, truyền thống …), các hòa giải viên còn vận dụng các quy định pháp luật để giải thích, hướng dẫn, thuyết phục các bên, giúp họ hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình theo hướng dẫn của pháp luật để họ tự lựa chọn, tự dàn xếp ổn thỏa với nhau mâu thuẫn, tranh chấp. Thông qua hòa giải, pháp luật đến với người dân một cách tự nhiên, trực tiếp, có sức thẩm thấu sâu sắc, sức lan tỏa rộng.
Thứ tư: Hòa giải ở cơ sở góp phần duy trì và phát huy đạo lý truyền thống, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Hòa giải viên khi tiến hành hòa giải không chỉ dựa trên các quy định của pháp luật mà còn dựa vào những chuẩn mực đạo đức, văn hóa ứng xử, phong tục, tập cửa hàng tốt đẹp để tác động tới tâm tư, tình cảm của các bên, khơi dậy trong họ những suy nghĩ, tình cảm tích cực, qua đó làm cho các giá trị văn hóa truyền thống được bảo tồn và phát huy