“Reconciliation” ordinarily implies forgiveness for injuries on either or both sides. The term is often applied to the parties to a Divorce who cease proceedings for the dissolution of their marriage upon a resolution of their differences. Reconciliation is used interchangeably with conciliation.
Reconciliation in family law is the process by which parties who are legally separated resume their marital relationship and cohabitation.
Reconciliation is allowed because separation is revocable; state laws may require “the joint application of the parties, lvnompanied with satisfactory evidence of their reconciliation … by the court which rendered it, subject to such regulations and restrictions as the court thinks fit to impose”.
1. Hoà giải là gì
Hòa giải là hành vi thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa. Hòa giải cũng là giải quyết các tranh chấp, bất đồng giữa hai hay nhiều bên tranh chấp bằng việc các bên dàn xếp, thương lượng với nhau có sự tham gia của bên thứ ba (không phải là bên tranh chấp). Hòa giải còn được hiểu ở góc độ rộng hơn là một quá trình, trong đó bên thứ ba giúp hai bên tranh chấp ngồi lại với nhau để cùng giải quyết vấn đề của họ.Hòa giải cũng được coi là sự tiếp nối của quá trình thương lượng, trong đó các bên cố gắng làm điều hoà những ý kiến bất đồng.
Hòa giải có ý nghĩa lớn, nó là cho những tranh chấp, xung đột, mâu thuẫn, xích mích được dập tắt hoặc không vượt qua giới hạn sự nghiêm trọng, giúp cho các bên tránh được một sự xung đột được giải quyết bằng bạo lực hoặc chiến tranh. Giúp các bên hiểu biết lẫn nhau, giữ gìn cục diện ổn định… Chính vì vai trò to lớn này nên trong quy định pháp luật, các nước thường đặt ra vấn đề hòa giải trong giải quyết các tranh chấp. Và ở góc độ quốc tế, hòa giải cũng là một trong những nguyên tắc hàng đầu trong việc giải quyết tranh chấp quốc tế được quy định tại Hiến Chương Liên Hiệp quốc.
2. Hoà giải trong tranh chấp là gì
Hoà giải là phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian hoà giải để hỗ trợ, thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm loại trừ tranh chấp đã phát sinh.
3. Đặc điểm của hòa giải tranh chấp thương mại
Đặc điểm của cách thức giải quyết tranh chấp bằng hòa giải:
– Thứ nhất, việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải đã có sự hiện diện của bên thứ ba (do các bên tranh chấp lựa chọn) làm trung gian để trợ giúp các bên tìm kiếm giải pháp tối ưu nhằm loại trừ tranh chấp.
Chủ thể của hoạt động giải quyết tranh chấp bằng phương thức hòa giải ngoài các bên tranh chấp còn có người trung gian hoà giải (người thứ ba). Bên thứ ba là cá nhân, pháp nhân cần phải hội đủ những phẩm chất nhất định, như: có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; am hiểu pháp luật, có kinh nghiệm thực tiễn và có sự độc lập, trung lập với các bên tranh chấp. Người trung gian hoà giải không thể có lợi ích liên quan hoặc xung đột với lợi ích của các bên tranh chấp. Pháp luật hiện không có quy định về phẩm chất, điều kiện cần có của một hoà giải viên thương mại (khác với hoà giải viên tư pháp), tuy nhiên nếu họ là luật sư hay Trọng tài viên thì phải đáp ứng điều kiện được quy định trong Điều 10 Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012 và 2015) và Điều 20 Luật Trọng tài Thương mại năm 2010.
Người thứ ba được các bên lựa chọn làm trung gian hoà giải có vai trò cần thiết và giữ vị trí trung tâm mặc dù quyết định cuối cùng vẫn thuộc về các bên tranh chấp. Tuy nhiên, bên thứ ba làm trung gian hoà giải không có quyền quyết định hay áp đặt bất cứ vấn đề gì nhằm ràng buộc các bên tranh chấp. Quyền quyết định cuối cùng vẫn thuộc về các bên tranh chấp khi họ thống nhất được ý chí với nhau về giải quyết vụ tranh chấp trên cơ sở hướng dẫn, trợ giúp của người thứ ba làm trung gian hoà giải. Tuy cùng có sự tham gia của người thứ ba vào quá trình giải quyết tranh chấp nhưng hoà giải (ngoài tố tụng) khác với phương thức giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài hay tòa án bởi vai trò của người thứ ba. Trọng tài hay toà án với tư cách người thứ ba tham gia vào giải quyết vụ tranh chấp lại có quyền ra phán quyết để ràng buộc các bên tranh chấp phải thực hiện theo các nội dung của phán quyết đã được đưa ra.
– Thứ hai, quá trình hòa giải các bên tranh chấp không chịu sự chi phối bởi các quy định có tính khuôn mẫu, bắt buộc của pháp luật về thủ tục hòa giải. Cũng giống như thương lượng, pháp luật hiện hành của Việt Nam không có quy định nào ràng buộc, chi phối đến cơ chế hoà giải ngoài các quy định có tính chất ghi nhận thương lượng, hòa giải là những phương thức giải quyết tranh chấp được các bên tranh chấp ưu tiên lựa chọn để giải quyết tranh chấp phát sinh.
– Thứ ba, kết quả hoà giải thành được thực thi cũng hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của các bên tranh chấp mà không có bất kì cơ chế pháp lý nào bảo đảm thi hành những cam kết của các bên trong quá trình hòa giải. Đây là điểm giống cách thức giải quyết tranh chấp bằng thương lượng vì xét về bản chất việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng hoà giải thực chất vẫn được thực hiện bởi cơ chế tự giải quyết và hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện của các bên tranh chấp. Tuy nhiên, cũng cần phân biệt hoà giải với sự tham gia của bên thứ ba được các bên lựa chọn (hòa giải ngoài tố tụng ) và hòa giải được tiến hành tại toà án hay trọng tài (hoà giải trong tố tụng).
Mặc dù vậy, hoạt động hòa giải thông thường được tiến hành theo các bước nhằm đạt được hiệu quả giải quyết các tranh chấp giữa các bên như trao đổi thông tin, tài liệu, lựa chọn hội đồng, các ý kiến tham vấn của người trung gian hoà giải… Kết quả của phiên hoà giải cần được ghi nhận bằng văn bản có trọn vẹn chữ ký của người uỷ quyền các bên tranh chấp. Văn bản thỏa thuận này có giá trị ràng buộc các bên và các bên phải tôn trọng, tự nguyện thực hiện như đã cam kết. Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải cũng có nhiều ưu điểm bởi tính đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng, sự linh hoạt, ít tốn kém, ít chịu sự chi phối của các nguyên tắc hay hoạt động của các đơn vị công quyền. Đặc biệt với sự tham gia của người thứ ba vừa đảm bảo sự hiểu biết chuyên môn ở lĩnh vực tranh chấp và đáp ứng niềm tin của các bên góp phần không nhỏ tạo nên sự thành công của phiên hoà giải trong tranh chấp thương mại. Tuy nhiên, hiệu quả trên thực tiễn của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải còn gắn liền với các thành tố khác như ý thức thực hiện các cam kết, thỏa thuận hay sự trung thực và thiện chí của các bên.
4. Các loại hoà giải
Tùy theo phạm vi tiếp cận và cách tiếp cận khác nhau, hòa giải có thể được chia làm nhiều loại khác nhau.
Hòa giải truyền thống
Là một truyền thống văn hóa của các nước để giải quyết các xung đột trong cộng đồng, quốc gia, dân tộc bằng các phương pháp hòa giải. Theo đó. Các tranh chấp từ tranh chấp cá nhân, tranh chấp trong gia đình, tranh chấp trong cộng đồng, tranh chấp giữa các địa phương hay các tranh chấp khác trên phạm vi toàn quốc sẽ được giải quyết một cách êm thấm thông qua việc hòa giải.
Ở Việt Nam, việc hòa giải là một hoạt động xuất phát từ truyền thống đoàn kết, hoà hiếu của dân tộc như: “Dĩ hòa vi quý” “Hoà cả làng”, “Một điều nhịn, chín điều lành”, “Chín bỏ làm mười”… hay thói quen của cộng đồng trong việc giải quyết tranh chấp là không muốn đưa các tranh chấp ra trước các đơn vị tài phán để phán xử như: “Vô phúc đáo tụng đình”, vì không muốn “Chuyện bé xé ra to”, “Vạch áo cho người xem lưng” mà chủ yếu là “đóng cửa bảo nhau”.
Hòa giải chính trị
Là việc hòa giải những xung đột, mâu thuẫn, bất đồng giữa các bộ phận trong cộng đồng, những nhóm chính trị, đảng phái chính trị, hội đoàn… mà có yếu tố nhà nước và thường liên quan đến các lợi ích có tính chính trị. Thuật ngữ thông dụng trên báo chí chỉ về loại hình này là hòa giải, hòa hợp dân tộc. Một số sự kiện nổi bật hiện nay là vấn đề của tiến trình hòa giải những rạn nứt trong nội bộ dân tộc ở Thái Lan hiện nay sau cuộc khủng hoảng chính trị bắt nguồn từ năm 2006. Và ở Việt Nam hiện nay vấn đề hòa giải dân tộc cũng được đặt ra và tốn nhiều giấy mực của báo chí trong thời gian gần đây.
Với một lượng kiều hối chuyển về nước ngày càng nhiều,và Việt kiều ngày càng đóng vai trò cần thiết hơn trong việc làm cầu nối để hàng hóa nội địa vươn tới hải ngoại và ngược lại, Nhà nước Việt Nam đã nhanh chóng đặt ra vấn đề hòa giải dân tộc để huy động sức mạnh và sự đóng góp của lực lượng “Việt kiều yêu nước” Tuy vậy, tiến trình hòa giải dân tộc ở Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn do còn nhiều bất đồng trong cách suy nghĩ và các vấn đề lịch sử để lại.
Hòa giải quốc tế
Trong pháp luật quốc tế, đặc biệt là trong lĩnh vực công pháp quốc tế, Hòa giải cũng được coi là một trong những biện pháp hoà bình giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia. Các bên tranh chấp có thể tiến hành hòa giải với sự giúp đỡ của bên thứ ba (cá nhân, quốc gia, tổ chức quốc tế) dưới cách thức môi giới hòa giải và trung gian hòa giải. Trong công pháp quốc tế, nguyên tắc hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế có vai trò nền tảng cho hòa giải quốc tế. Điều 33 Hiến chương Liên Hiệp quốc quy định: “Các bên tranh chấp quốc tế, trước tiên phải cố gắng giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp như: Đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án hoặc thông qua các đơn vị hay tổ chức quốc tế khu vực hoặc bằng các biện pháp hòa bình khác do các bên đã chọn.”
Các bên có quyền tự do lựa chọn các biện pháp hòa bình nói trên để giải quyết tranh chấp sao cho phù hợp và có hiệu quả nhất. Cùng với sự phát triển các quá trình hội nhập khu vực và quốc tế, trong những năm gần đây, cộng đồng quốc tế quan tâm nhiều đến biện pháp thông qua tổ chức quốc tế ở khu vực để phối hợp giải quyết các tranh chấp quốc tế, trong đó phải kể đến vai trò của các tổ chức như Liên minh Châu Âu (EU), Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)và Liên Hiệp quốc (UN).
Trong các biện pháp giải quyết tranh chấp theo Luật pháp quốc tế, biện pháp hòa giải cũng được tiến hành bởi sự tham gia của bên thứ ba. Tuy nhiên trong thực tiễn, khác với bên trung gian hay môi giới, vai trò của bên hòa giải thể hiện qua việc tham gia tích cực trong các cuộc đàm phán giữa các bên tranh chấp. Hơn nữa, người hòa giải có thể đưa ra các kiến nghị cùng cách giải quyết của mình và soạn các dự thảo để các bên thảo luật (sáng kiến hòa bình).
Với tư cách tham gia tích cực vào đàm phán giữa các bên tranh chấp, bên hòa giải có phạm vi quyền hạn và nghĩa vụ rộng lớn hơn, thể hiện việc tham gia đàm phán từ đầu cho đến khi kết thúc, thậm chí có thể điều khiển cả cuộc đàm phán, đưa ra kiến nghị hoặc đề nghị thay đổi yêu sách của các bên tranh chấp nhằm làm cho các bên tranh chấp xích lại gần nhau hơn.
Nhiệm vụ của bên hòa giải là dung hòa yêu sách của giữa các bên tranh chấp và hòa giải giữa các bên những kiến nghị của họ không có tính chất bắt buộc đối với các bên tranh chấp nhưng những kiến nghị của họ không có tính chất bắt buộc đối với các bên tranh chấp. Hoạt động hòa giải được tiến hành theo đề nghị của các bên tranh chấp hoặc theo sáng kiến của bên thứ ba. Bên thứ ba có thể là một hoặc một số quốc gia, cá nhân hoặc tổ chức quốc tế không tham gia vào vụ tranh chấp.
Nhiều điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương cũng quy định hòa giải là một trong những biện pháp mà thành viên ký kết điều ước có thể sử dụng khi tranh chấp nảy sinh trong quá trình giải thích hoặc thực hiện các điều ước quốc tế đó. Chẳng hạn, Công ước Viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế được ký kết giữa các quốc gia, Công ước Luật biển năm 1982…
Trong quá trình hòa giải quốc tế, chúng ta có thể thấy vai trò to lớn của các tổ chức quốc tế, vai trò của các bên trung gian. Trong tiến trình hòa giải Trung Đông giữa Israel và Palestin vai trò của nhóm “Bộ Tứ” (Liên Hợp Quốc, Liên Minh châu Âu, Hoa Kỳ và Nga là rất cần thiết, có ảnh hưởng to lớn trong việc kêu gọi, thúc giục các bên đàm phán. Mặt khác thì cuộc đàm phán sáu bên giữa các nước về tiến trình hòa giải trên bán đảo Triều Tiên, các nước trung gian như Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản có tiếng nói cần thiết trong việc khẳng định lập trường, thái độ của Cộng hoà dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Hàn Quốc.
Hòa giải theo luật
Là các loại hình hòa giải được pháp luật các nước quy định, theo đó việc hòa giải là một khâu trong trình tự, thủ tục tiến hành tố tụng, hoặc thiết lập một thể chế hòa giải ở địa phương.
Ở Việt Nam hiện nay, việc giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế , lao động, tranh chấp lao động, các vụ án hôn nhân – gia đình tại tòa án nhân dân hay tại một tổ chức, hay tại Hội đồng trọng tài đều thông qua khâu hòa giải như một thủ tục bắt buộc. Khi hòa giải thành, tòa án, trọng tài sẽ ra quyết định công nhận kết quả hòa giả mà không cần phải tiến hành xét xử. Các bên tranh chấp cũng có thể tự tổ chức hòa giải tranh chấp ngoài phạm vi tố tụng của tòa án và trọng tài.
Pháp luật của Việt Nam cũng quy định về công tác hòa giải những xích mích, tranh chấp nhỏ trong nội bộ nhân dân bằng công tác hòa giải ở đơn vị cơ sở. Việc giải quyết các tranh chấp mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân ở các khu vực dân cư do các tổ hòa giải cơ sở thực hiện theo hướng dẫn của pháp luật.
Điều 172 của “Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992” quy định: “Ở cơ sở, thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo hướng dẫn của pháp luật”. Ngày 25.12.1998, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải cơ sở và sau này, năm 2012 đã ban hành Luật Hoà giải để thay thế. Tựu trung lại, pháp luật Việt Nam quy định có các dạng hòa giải sau:
- Hoà giải được tiến hành ở Tòa án nhân dân, theo đó Tòa án nhân dân trong quá trình tiến hành tố tụng phải thực hiện nguyên tắc hoà giải. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 đã khẳng định trong Điều 10 về nguyên tắc hòa giải trong tố tụng dân sự: “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự”.
Bộ luật cũng quy định cụ thể việc hòa giải được thực hiện ở tất cả các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, từ khi chuẩn bị xét xử đến khi bắt đầu xét xử tại phiên tòa, trừ những vụ án không được hòa giải như yêu cầu đòi bồi thường tổn hại đến tài sản nhà nước hoặc những vụ án dân sự phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội.
Bản chất của quan hệ dân sự là được thiết lập trên cơ sở tự nguyện và quyền tự định đoạt của đương sự, do đó việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ này được thực hiện theo những biện pháp nhất định, không giống với tố tụng hình sự hay tố tụng hành chính, mà hòa giải là một biện pháp cần thiết và là nguyên tắc bắt buộc tòa án phải thực hiện. (Những vấn đề cơ bản của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Vụ Công tác Lập pháp – Văn phòng Quốc hội, Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2004)
- Hoà giải được tiến hành tại các đơn vị quản lý lao động theo hướng dẫn của Bộ Luật lao động. Đây là một nguyên tắc trong việc giải quyết tranh chấp lao động theo hướng dẫn tại Điều 158 của Bộ Luật Lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2002. Theo đó, các tranh chấp về lao động có thể yêu cầu Hoà giải viên, Hội đồng hòa giải, Hội đồng trọng tài giải quyết trước khi khởi kiện ra Toà án lao động. Theo quy định của pháp luật lao động, hệ thống các đơn vị có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về lao động bao gồm:
- Hội đồng hòa giải cơ sở: Hội đồng này được thành lập tại các doanh nghiệp sử dụng thường xuyên từ 10 lao động trở lên, nó có thẩm quyền hòa giải mọi tranh chấp giữa người lao động, tập thể người lao động với người sử dụng lao động. Hội đồng hòa giải cơ sở gồm số người dại diện ngang nhau của bên người sử dụng lao động, số lượng do hai bên thỏa thuận. Nhiệm kỳ của Hội đồng là hai năm. Đại diện của mỗi bên luân phiên làm chủ tịch và thư ký hội đồng. Hội đồng công tác theo nguyên tắc thỏa thuận và nhất trí
- Hòa giải viên lao động: Là một người do đơn vị lao động cấp huyện cử ra, có nhiệm vụ giải quyết tranh chấp lao động ở những nơi chưa thành lập Hội đồng hòa giải lao động cơ sở, giải quyết các tranh chấp giữa người giúp việc gia đình với người sử dụng lao động, tranh chấp về thực hiện hợp đồng dạy nghề và phí dạy nghề.
- Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh: Là hội đồng do đơn vị lao động cấp tỉnh lập ra và cử uỷ quyền làm chủ tịch, có nhiệm vụ giải quyết tranh chấp lao động tập thể đã qua hòa giải cơ sở nhưng không thành. Hội đồng trọng tài lao động cấp tỉnh được thành lập theo số lẻ và tối đa không quá 09 thành viên, gồm các thành viên chuyên trách và kiêm chức (kiêm nhiệm) là uỷ quyền của đơn vị lao động, uỷ quyền của công đoàn, uỷ quyền của những người sử dụng lao động và một số chuyên gia, nhà hoạt động xã hội có uy tín ở địa phương. Nhiệm kỳ của Hội đồng này là 03 năm. Hội đồng công tác theo chế độ tập thể, quyết định theo đa số bằng cách bỏ phiếu kín.
- Tòa án nhân dân: Tòa Lao động của Tòa án nhân dân trực tiếp giải quyết các vụ án lao động. Cũng như các tòa hình sự, dân sự, Tòa Lao động là một tòa chuyên trách trong tổ chức hệ thống tòa án nhân dân.
- Hòa giải tại Ủy ban nhân dân: Đây là việc hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã đối với các tranh chấp về đất đai theo hướng dẫn của Luật Đất đai năm 2003 và Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ năm 2004 về thi hành Luật Đất đai, đây là loại hòa giải mang tính chất bắt buộc trước khi thực hiện các thủ tục hành chính kế tiếp
- Hoà giải ở cơ sở: Là hòa giải được tổ chức ở cơ sở (xóm, ấp, tổ dân phố…), đây là loại hòa giải tự nguyện theo Pháp lệnh về Tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở
Cũng theo hướng dẫn của pháp luật hiện hành, các bên không được phép hòa giải một số vụ việc liên quan đến huỷ bỏ việc kết hôn trái pháp luật, đòi bồi thường tổn hại tài sản của nhà nước, những việc phát sinh từ giao dịch trái pháp luật, những việc xác định công dân mất tích hoặc đã chết, những việc khiếu nại đơn vị hộ tịch về việc từ chối đăng ký hoặc không chấp nhận yêu cầu sửa đổi những điểm ghi trong giấy tờ về hộ tịch, những việc khiếu nại về danh sách cử tri và những việc khác theo hướng dẫn của pháp luật. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam rất khuyến khích việc hòa giải ở cơ sở.