Trẻ em là gì? Quy định của pháp luật về trẻ em [Mới nhất 2023]

Trẻ em là mầm non của đất nước, là tương lai của đất nước. Do đó, trẻ em là những chủ thể vô cùng cần thiết đối với quốc gia. Chính vì thế, Nhà nước ta đã ban hành Luật về Trẻ em nhằm quy định về những quyền lợi và nhiệm vụ và những vấn đề có liên quan đến trẻ em. Đồng thời cũng bảo vệ và đảm bảo các quyền vốn có của trẻ em. Vậy Trẻ em là gì? Quy định của pháp luật về trẻ em thế nào. Hãy cùng LVN Group nghiên cứu thông qua nội dung trình bày dưới đây.
Trẻ em là gì? Quy định của pháp luật về trẻ em [Mới nhất 2023]

1. Trẻ em là gì?

Công ước quốc về quyền trẻ em năm 1989 quy định : Trẻ em là bất kỳ người nào dưới 18 tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia thành viên quy định tuổi thành niên sớm hơn. Theo quy định tại điều 1 luật trẻ em năm 2016 sửa đổi bổ sung năm 2018 quy định: Trẻ em là người dưới 16 tuổi.

Mỗi trẻ em là một con người với các đặc điểm riêng về mặt tâm và sinh lý, các đặc điểm và khả năng của trẻ em khác nhau theo từng độ tuổi và sự trưởng thành. Năng lực của trẻ em được hình thành thay đổi do sự phát triển, trẻ em có quyền được sống trưởng thành và khỏe mạnh trong tình yêu thương của gia đình và cộng đồng.

2. Quy định của pháp luật về trẻ em [Mới nhất 2023]

2.1 Quyền của trẻ em

Quyền của trẻ em  là tất cả những gì trẻ em cần có để được sống và lớn lên một cách lành mạnh và an toàn.

Quyền  trẻ  em  nhằm  bảo  đảm  cho  trẻ  em không chỉ là người tiếp nhận thụ động lòng nhân từ của người lớn mà các em còn là những thành viên  tham  gia  tích  cực  vào  quá  trình  phát  triển của nhân loại.

Các quyền phải thực hiện ngay:

– Các quyền dân sự, chính trị.

– Các vấn đề như sự phân biệt đối xử, quyền được lắng nghe, quyền có họ tên, quốc tịch, quyền tự do biểu đạt và lập hội, quyền được đoàn tụ với gia đình, quyền được bảo vệ khỏi sự hành hạ và ngược đãi.

– Những quy định đặc biệt về sự bảo vệ, can thiệp của nhà nước trong những tình huống và điều kiện mà theo đó, trẻ em có thể bị tước đoạt tự do.

Các quyền thực hiện từng bước:

– Các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa;

– Các quyền về y tế và giáo dục;

– Các quyền không thuộc nhóm quyền thứ nhất.  Các quyền này được công nhận tại Điều 4 Công ước  quốc  tế  về  quyền  trẻ  em  năm  1989  với  nội dung: “ Về các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa các quốc gia thành viên phải thi hành các biện  pháp  như  vậy  ở  mức  tối  đa  theo  khả  năng  sẵn  có  của  mình,  và  khi   cần  thiết,  trong  khuôn khổ hợp tác quốc tế”.  Quá trình theo dõi, giám sát và thực hiện quyền:

– Thành lập một ủy ban quốc gia giám sát việc thực hiện.

– Đề ra các mục tiêu cụ thể trong một thời gian nhất định để thực hiện.

–  Thông  qua  các  luật  phù  hợp  với Công  ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989.

– Thực hiện các chương trình và hoạt động.

– Xem xét tình hình hiện tại của trẻ em.

– Xác định xem đã làm được những gì và những điều cần phải làm.

– Báo cáo lần thứ nhất sau hai năm, sau đó, cứ năm năm một lần.

2.2. Nguyên tắc về quyền trẻ em

Các nguyên tắc của Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 là những quy định bắt buộc phải tuân thủ khi thực hiện bất kỳ quyền nào của trẻ em, được quy định trong Công ước.  Các nguyên tắc của Công ước là công cụ định hướng giúp diễn giải rõ ràng tinh thần và thông điệp của Công ước. Các nguyên tắc này phải được bảo  đảm  thực  hiện  bất  kỳ  điều  khoản  nào  của  31Công ước. Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 bao gồm bốn nguyên tắc:

Nguyên tắc thứ nhất: Không phân biệt đối xử trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em.  Nguyên tắc này được thể hiện qua các điều 5, 17, 27, 38, 41 của Công ước.  Trách  nhiệm, quyền và nghĩa vụ của cha mẹ, của các thành viên trong gia đình mở rộng, của cộng đồng theo phong tục địa phương, của những người giám hộ pháp lý, những người chịu trách nhiệm về mặt pháp lý với đứa trẻ trong việc chỉ bảo và hướng dẫn trẻ thực hiện  những  quyền  trong  Công  ước,  phù  hợp  với mức  độ  phát  triển  về  năng  lực  của  trẻ em có quyền được có mức sống thích đáng để phát triển thể chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội. Muốn đạt được điều này, cha mẹ hoặc những người chịu trách nhiệm về trẻ em phải bảo đảm  các  điều  kiện  sống  cần  thiết  cho  sự  phát  triển  của trẻ  em  theo năng lực  và  khả  năng tài chính của mình.

Nhà  nước,  dựa  theo  khả  năng  thực  tế  của mình, phải thi hành các biện pháp thích hợp, giúp cha mẹ và những người chịu trách nhiệm về trẻ em  thực  hiện  quyền  này.

Trong các cuộc xung đột vũ trang, phải bảo đảm tôn trọng những quy tắc về Luật Nhân đạo quốc tế liên quan đến trẻ em, không được để trẻ em dưới 15 tuổi trực tiếp tham gia chiến sự, không tuyển mộ trẻ vào lực lượng vũ trang đồng thời dùng mọi biện pháp có thể để bảo vệ và chăm sóc những trẻ em bị ảnh hưởng bởi xung đột vũ trang.

Tóm lại,  luôn phải  tạo  mọi điều kiện để  thực  hiện quyền trẻ em theo luật quốc tế và pháp luật của quốc gia thành viên, tức là mọi trẻ em đều được hưởng quyền trẻ em theo công ước quốc tế và quốc gia.

Nguyên tắc thứ hai, xem lợi ích của trẻ em là  mối  quan  tâm  hàng  đầu  trong  mọi  hành  động liên quan đến trẻ em.  Nguyên tắc này được thể hiện trong Điều 3 của Công  ước  quốc  tế  về  quyền  trẻ  em năm 1989. Đó là mọi hoạt động liên quan tới trẻ em, do các đơn vị, tổ chức của nhà nước hay tư nhân như phúc lợi xã hội, tòa án, hành chính hoặc pháp luật đều phải đặt lợi ích của trẻ em lên hàng đầu khi thực hiện bất kỳ công việc gì.

Phải dành cho trẻ em sự bảo vệ và chăm sóc cần  thiết,  cân  nhắc  đến  quyền  và  nghĩa  vụ  của cha  mẹ,  người  giám  hộ  hợp  pháp  hay  bất  kỳ  cá nhân nào có trách nhiệm pháp lý với trẻ em, trên cơ sở đó, tiến hành biện pháp lập pháp và hành pháp thích hợp.

Những tổ chức, đơn vị, cơ sở chịu trách nhiệm chăm  sóc  hoặc  bảo  vệ  trẻ  em  phải  tuân thủ các tiêu chuẩn đã được nhà nước quy định, đặc biệt trong lĩnh vực bảo đảm an toàn và sức khỏe cho trẻ. Nhà nước phải kiểm tra giám sát về số lượng,  trình độ chuyên môn của đội ngũ chuyên viên ở đó có thích hợp với việc chăm sóc trẻ không.

Nguyên tắc thứ ba,  trẻ  em  có  quyền  được sinh  tồn  và  phát  triển. Nguyên tắc này được thể hiện  rõ  trong  Điều  6  của Công  ước quốc  tế  về quyền trẻ em năm 1989.  Phải thừa nhận mọi trẻ em đều có quyền vốn có là được sống. Vì thế, phải bảo đảm đến mức tối đa sự sống còn cũng như sự phát triển của trẻ em.

Nguyên tắc thứ tư, ý  kiến  của  trẻ  em  phải được tôn trọng.  Nguyên tắc này được thể hiện rõ trong Điều 12 của Công ướcquốc tế về quyền trẻ em năm 1989.  Theo  nguyên  tắc  này,  trẻ  em  phải  được  bảo đảm  để  có  đủ  khả  năng  hình  thành  quan  điểm riêng  của  mình,  được  quyền  tự  do  phát  biểu những  vấn  đề  tác  động  đến  trẻ  em.

Quan  điểm của  trẻ  em  phải  được  coi  trọng  một  cách  thích đáng,  tương  ứng  với  độ  tuổi  và  mức  độ  trưởng thành của trẻ. Muốn làm tốt điều này, phải tạo cơ hội để trẻ có thể nói lên ý kiến của mình trong bất kỳ quá trình tố tụng tư pháp hoặc hành chính nào có liên quan đến trẻ, trực tiếp hoặc thông qua một người  đại  diện  hay  một  cơ  quan  thích  hợp,  theo cách thức phù hợp với những quy tắc, thủ tục của pháp luật quốc gia.

2.3. Một số quyền của trẻ em 

– Quyền sống : Quyền được sống còn của trẻ em bao gồm quyền được sinh ra và phát triển bình thường cả về thể chất lẫn tinh thần. Gia đình, Nhà nước và xã hội có nghĩa vụ làm tất cả những gì tốt nhất bảo đảm cho trẻ em được sống, có nơi ở, ăn uống đủ chất, được chăm sóc sức khỏe và giúp đỡ trong trường hợp khẩn cấp. –  Quyền được bảo vệ: Trẻ em được gia đình, nhà nước và xã hội tôn trọng, bảo vệ tính mạng, thân thể, nhân phẩm và danh dự; bảo vệ trẻ em khỏi sự phân biệt, đối xử vô nhân đạo, bóc lột lao động, xâm hại tình dục, lạm dụng ma túy, bị bỏ rơi, bị bắt cóc và buôn bán.

– Quyền được phát triển: Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.

Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm sự sống còn và phát triển của trẻ em; quyền được cha mẹ chăm sóc sau khi ra đời, tạo điều kiện cho trẻ em phát triển toàn diện về thể chất, tinh thần và đạo đức. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm và giúp đỡ cha mẹ, người có trách nhiệm nuôi dưỡng thực hiện quyền này. Trẻ em có quyền được học tập, nhà nước có trách nhiệm bảo đảm cho trẻ em thực hiện quyền học tập; thi hành giáo dục tiểu học bắt buộc, sẵn có và miễn phí cho tất cả mọi người.

– Quyền được tham gia:  Trẻ em có đủ khả năng hình thành quan điểm riêng của mình, có quyền tự do phát biểu ý kiến về tất cả mọi vấn đề có ảnh hưởng đến trẻ em và những ý kiến đó phải được coi trọng một cách thích ứng phù hợp với lứa tuổi và độ trưởng thành của trẻ em.

Các quốc gia phải tôn trọng quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo của trẻ em theo sự hướng dẫn thích hợp của cha mẹ, người giám hộ. Trẻ em có quyền tự do kết giao và tự do hội họp hoà bình trừ một số hạn chế được pháp luật quy định và cần thiết để bảo vệ an toàn công cộng, trật tự xã hội, bảo vệ sức khoẻ hay đạo đức hoặc bảo vệ quyền và tự do của người khác; có quyền được thu nhận thông tin và tư liệu từ nhiều nguồn khác nhau, đặc biệt là những thông tin, tư liệu cổ vũ cho lợi ích xã hội, tinh thần và đạo đức cũng như sức khoẻ, thể chất và tinh thần của trẻ em.

3. Các hành vi bị nghiêm cấm để đảm bảo thực hiện quyền trẻ

Tước đoạt quyền sống của trẻ em.

Bỏ rơi, bỏ mặc, mua bán, bắt cóc, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.

Xâm hại tình dục, bạo lực, lạm dụng, bóc lột trẻ em.

Tổ chức, hỗ trợ, xúi giục, ép buộc trẻ em tảo hôn.

Sử dụng, rủ rê, xúi giục, kích động, lợi dụng, lôi kéo, dụ dỗ, ép buộc trẻ em thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác.

Cản trở trẻ em thực hiện quyền và bổn phận của mình.

Không gửi tới hoặc che giấu, ngăn cản việc gửi tới thông tin về trẻ em bị xâm hại hoặc trẻ em có nguy cơ bị bóc lột, bị bạo lực cho gia đình, cơ sở giáo dục, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền.

Kỳ thị, phân biệt đối xử với trẻ em vì đặc Điểm cá nhân, hoàn cảnh gia đình, giới tính, dân tộc, quốc tịch, tín ngưỡng, tôn giáo của trẻ em.

Bán cho trẻ em hoặc cho trẻ em sử dụng rượu, bia, thuốc lá và chất gây nghiện, chất kích thích khác, thực phẩm không bảo đảm an toàn, có hại cho trẻ em.

Cung cấp dịch vụ Internet và các dịch vụ khác; sản xuất, sao chép, lưu hành, vận hành, phát tán, sở hữu, vận chuyển, tàng trữ, kinh doanh xuất bản phẩm, đồ chơi, trò chơi và những sản phẩm khác phục vụ đối tượng trẻ em nhưng có nội dung ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của trẻ em.

Công bố, Tiết lộ thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của trẻ em mà không được sự đồng ý của trẻ em từ đủ 07 tuổi trở lên và của cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em.

Lợi dụng việc nhận chăm sóc thay thế trẻ em để xâm hại trẻ em; lợi dụng chế độ, chính sách của Nhà nước và sự hỗ trợ, giúp đỡ của tổ chức, cá nhân dành cho trẻ em để trục lợi.

Lấn chiếm, sử dụng cơ sở hạ tầng dành cho việc học tập, vui chơi, giải trí và hoạt động dịch vụ bảo vệ trẻ em sai Mục đích hoặc trái quy định của pháp luật.

Từ chối, không thực hiện hoặc thực hiện không trọn vẹn, không kịp thời việc hỗ trợ, can thiệp, Điều trị trẻ em có nguy cơ hoặc đang trong tình trạng nguy hiểm, bị tổn hại thân thể, danh dự, nhân phẩm.

Trên đây là nội dung trình bày về Trẻ em là gì? Quy định của pháp luật về trẻ em [Mới nhất 2023] mời bạn đọc thêm cân nhắc và nếu có thêm những câu hỏi về nội dung trình bày này hay những vấn đề pháp lý khác về dịch vụ luật sư, tư vấn nhà đất, thành lập doanh nghiệp… hãy liên hệ với LVN Group theo thông tin bên dưới để nhận được sự hỗ trợ nhanh chóng và hiệu quả từ đội ngũ luật sư, chuyên viên pháp lý có nhiều năm kinh nghiệm từ chúng tôi. LVN Group đồng hành pháp lý cùng bạn.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com