Theo Điều 63 Bộ luật Hình sự 2015, người bị kết án phạt tù chung thân nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự, thì theo đề nghị của đơn vị thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
1. Phạt tù chung thân là bao nhiêu năm?
Căn cứ Điều 39 Bộ luật Hình sự 2015 quy định tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình.
Không áp dụng hình phạt tù chung thân đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Không thời hạn ở đây có nghĩa là khi người phạm tội bị áp dụng hình phạt tù chung thân thì phải đi tù cho đến cuối đời. Không có mức thời gian cụ thể đối với hình phạt tù chung thân.
2. Chính sách giảm án đối với người phạm tội bị áp dụng hình phạt tù chung thân?
Nước ta có các chính sách nhân đạo về xử lý hình sự và thi hành án đối với người phạm tội; được quy định khá trọn vẹn trong các văn bản pháp luật hình sự. Qua đó tạo điều kiện cho người phạm tội cải tạo tốt được hưởng các chính sách khoan hồng.
Căn cứ Điều 63 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về chính sách giảm mức hình phạt đã tuyên như sau:
– Người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự, thì theo đề nghị của đơn vị thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn, 12 năm đối với tù chung thân.
– Một người có thể được giảm nhiều lần, nhưng phải bảo đảm chấp hành được một phần hai mức hình phạt đã tuyên.
Người bị kết án tù chung thân, lần đầu được giảm xuống 30 năm tù và dù được giảm nhiều lần cũng phải bảo đảm thời hạn thực tiễn chấp hành hình phạt là 20 năm.
– Trường hợp người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu xuống 30 năm tù sau khi đã chấp hành được 15 năm tù và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời gian thực tiễn chấp hành là 25 năm.
– Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới ít nghiêm trọng do cố ý, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được một phần hai mức hình phạt chung.
– Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt chung hoặc trường hợp hình phạt chung là tù chung thân thì việc xét giảm án thực hiện theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều này.
– Đối với người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 3 Điều 40 của Bộ luật này thì thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tiễn chấp hành hình phạt là 30 năm.
Qua đó, Người bị kết án tù chung thân, lần đầu được giảm xuống 30 năm tù. Dù được giảm nhiều lần nhưng cũng phải bảo đảm thời hạn thực tiễn chấp hành hình phạt là 20 năm.
Vì vậy, một người bị kết án tù chung thân, nếu cải tạo tốt và đáp ứng đủ các điều kiện theo hướng dẫn; thì có thể được xem xét giảm án và có thể chỉ cần chấp hành đủ 20; hoặc 25 năm tù là được trả tự do theo chính sách nhân đạo của Nhà nước.
3. Tù chung thân khi được giảm án có được tha tù trước thời hạn không?
Căn cứ khoản 1 Điều 66 Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi bổ sung bởi khoản 9 Điều 1 Luật sửa đổi Bộ luật Hình sự 2017) quy định:
“Điều 66. Tha tù trước thời hạn có điều kiện
1. Người đang chấp hành án phạt tù về tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù hoặc người đang chấp hành án phạt tù về tội phạm ít nghiêm trọng có thể được tha tù trước thời hạn khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Phạm tội lần đầu;
b) Có nhiều tiến bộ, có ý thức cải tạo tốt;
c) Có nơi cư trú rõ ràng;
d) Đã chấp hành xong hình phạt bổ sung là hình phạt tiền, nghĩa vụ bồi thường tổn hại và án phí;
đ) Đã chấp hành được ít nhất là một phần hai mức phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất là 15 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn.
Trường hợp người phạm tội là người có công với cách mạng, thân nhân của người có công với cách mạng, người đủ 70 tuổi trở lên, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi thì phải chấp hành được ít nhất là một phần ba mức phạt tù có thời hạn hoặc ít nhất là 12 năm đối với trường hợp bị phạt tù chung thân nhưng đã được giảm xuống tù có thời hạn;
e) Không thuộc một trong các trường hợp phạm tội quy định tại khoản 2 Điều này.”
Trong đó, khoản 2 Điều này, không áp dụng quy định về tha tù trước thời hạn đối với người bị kết án thuộc một trong các trường hợp:
– Người bị kết án về một trong các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh, Tội khủng bố…
– Người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc thuộc trường hợp không thi hành án tử hình.
Theo các quy định trên, người bị kết án tù chung thân nhưng đã được giảm án có thể được tha tù trước thời hạn nếu phạm tội lần đầu, có ý thức cải tại tốt,… và chấp hành án tù được ít nhất từ 12 đến 15 năm tù.
Bên cạnh đó, người được ân giảm án tử hình xuống tù chung thân thì không được tha tù trước thời hạn.