Đối với một số vụ án về các tội phạm có tính chất đặc biệt và có ảnh hưởng lớn tới lợi ích của người bị hại thì việc khởi tố chỉ được thực hiện khi người bị hại hoặc người uỷ quyền hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có yêu cầu khởi tố. Quy định này đặt ra thể hiện sự tôn trọng đến quyền con người của công dân là họ có quyền quyết định yêu cầu khởi tố được không. Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định về khởi tố khi có yêu cầu của bị hại. Để nghiên cứu nội dung của quy định này, hãy theo dõi nội dung trình bày dưới đây của LVN Group.
1. Những vụ án về các tội phạm chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại.
Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại là trường hợp đặc biệt do tính chất của vụ án và vì lợi ích của người bị hại, đơn vị có thẩm quyền không tự ý quyết định việc khởi tố mà việc khởi tố vụ án hình sự được thực hiện theo yêu cầu của người bị hại. Vì theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì người bị hại là người bị tổn hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra, nên họ có quyền quyết định sẽ khởi tố được không khởi tố đối với các tội phạm có ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng tới chính bản thân họ. Đây là một quyền đặt ra phù hợp với quyền con người của công dân, người bị hại có quyền quyết định sẽ khởi tố được không vì một số tội có ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, nhân phẩm của người bị hại nếu họ khởi tố.
Căn cứ theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các Điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của Bộ luật Hình sự năm 1999 chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người uỷ quyền hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất. Căn cứ các tội đó là:
– Điều 104 Tội cố ý gây thương thích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
– Điều 105 Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh;
– Điều 106 Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
– Điều 108 Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
– Điều 109 Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính;
– Điều 111 Tội hiếp dâm;
– Điều 113 Tội cưỡng dâm;
– Điều 121 Tội làm nhục người khác;
– Điều 122 Tội vu khống;
– Điều 131 Tội xâm phạm quyền chuyên gia;
– Điều 171 Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.
2. Thủ tục khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại.
Căn cứ để khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của người bị hại tại khoản 1 Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 là vụ án về một trong những tội phạm đã được liệt kê ở mục 1 (xác định dấu hiệu tội phạm của tội trong những tội phạm nêu trên); có yêu cầu của người bị hại hoặc của người uỷ quyền hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Việc quy định cho người uỷ quyền hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền yêu cầu khởi tố là phù hợp với tâm sinh lý của người bị hại. Vì họ không có trọn vẹn năng lực hành vi nhân sự nên họ sẽ không nhận thức hết được hậu quả pháp lý của việc khởi tố do đó nếu để họ tự có quyền yêu cầu khởi tố trong trường hợp này dễ gây ra ảnh hưởng xấu đến quyền lợi hợp pháp của họ, khiến quyền lợi của họ không được đảm bảo một cách kịp thời.
Theo quy định tại khoản 3 Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại thì người bị hại hoặc người uỷ quyền hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa.
Căn cứ theo hướng dẫn tại khoản 4 Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì người bị hại phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; nếu từ chối khai báo mà không có lý do chính đáng thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của Bộ luật hình sự.
Mặt khác, trong quy định tại khoản 2 Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì có giới hạn thời gian người bị hại rút yêu cầu đó là trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 105 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 169 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì Viện kiểm sát sẽ ra quyết định đình chỉ vụ án. Còn ở giai đoạn chuẩn bị xét xử thì theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 180 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì Thẩm cửa hàng ra quyết định đình chỉ vụ án.
Quyết định đình chỉ vụ án theo khoản 3 Điều 164 và Điều 180 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 phải ghi rõ những nội dung sau: ghi rõ thời gian, địa điểm ra quyết định, lý do và căn cứ đình chỉ điều tra, việc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, trả lại đồ vật, tài liệu đã tạm giữ, nếu có và những vấn đề khác có liên quan.
Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Thực tế, việc chứng minh sự trái ý muốn thường rất khó khăn, đặc biệt là trước những diễn biến phức tạp về tính chất và thủ đoạn hoạt động của các loại tội phạm trong tình hình hiện nay.
Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
Trên đây là toàn bộ nội dung nội dung trình bày giới thiệu về quyền yêu cầu khởi tố của người bị hại được quy định tại . Nội dung nội dung trình bày giới thiệu về những trường hợp chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của bị hại hoặc của người uỷ quyền hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, thủ tục khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại. Nếu trong quá trình nghiên cứu, quý bạn đọc còn có vấn đề câu hỏi cần được trả lời hay có quan tâm đến các dịch vụ tư vấn do LVN Group gửi tới, vui lòng truy cập địa chỉ trang web sau đây: https://lvngroup.vn/ để được tư vấn trả lời câu hỏi một cách chi tiết nhất.