Các tội xâm phạm sở hữu được quy định tại Chương XVI Bộ luật Hình sự năm 2015 (BLHS), gồm 13 tội được quy định từ Điều 168 đến Điều 180 BLHS. Căn cứ vào tính chất, mục đích phạm tội, khoa học luật hình sự chia các tội xâm phạm sở hữu thành nhóm các tội có tính chiếm đoạt (8 tội từ Điều 168 đến Điều 175 BLHS); các tội có mục đích tư lợi không chiếm đoạt (Điều 176, Điều 177 BLHS) và nhóm các tội không có mục đích tư lợi hoặc gây tổn hại về tài sản (Điều 178 đến Điều 180 BLHS). Vậy xâm phạm quyền sở hữu là gì? Như thế nào là có tính chiếm đoạt? và nhóm tội phạm xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt có những đặc điểm gì? Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu rõ hơn những quy định về nhóm tội phạm này.
Bàn về các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt
1/ Khái niệm tội xâm phạm quyền sở hữu
Tội xâm phạm quyền sở hữu được hiểu là những hành vi có lỗi, hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý xâm hại quan hệ sở hữu, xâm phạm các quyền thuộc nội dung sở hữu, hậu quả là gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân, tổ chức được nhà nước thừa nhận. Tội xâm phạm quyền sở hữu chủ yếu hướng đến là xâm phạm quyền sở hữu tài sản được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
Các tội xâm phạm quyền sở hữu là những tội có hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại cho quan hệ sở hữu. Các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt bao gồm: tội cướp tài sản, bắt cóc chiếm đoạt tàisản, cưỡng đoạt tài sản, cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, đây đều là các tội gây nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của cá nhân, gia đình, tổ chức, đơn vị,… mà còn xâm hại đến sức khỏe, tính mạng, tinh thần của người dân.
Bên cạnh đó, các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt còn gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, gây mất an ninh, trật tự an toàn xã hội, cản trở đến sự phát triển kinh tế, giáo dục, văn hóa, xã hội. Trong nội dung trình bày dưới đây, chúng tôi xin chia sẻ tới bạn đọc những vấn đề chung của các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt.
2/ Cấu thành tội phạm các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt
2.1/ Chủ thể của các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt
Chủ thể của hầu hết các tội xâm phạm quyền sở hữu chủ yếu là chủ thể thường, có năng lực trách nhiệm hình sự.
2.2/ Khách thể của các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt
Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Khách thể của các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt là quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân. Quan hệ sở hữu là khách thể của tội phạm nghĩa là các tội xâm phạm sở hữu gây tổn hại cho quan hệ sở hữu và sự gây tổn hại cho quan hệ sở hữu đã phản ánh trọn vẹn bản chất nguy hiểm cho tội phạm. Các hành vi gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại cho quan hệ sở hữu là những hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu của chủ sở hữu tài sản đó.
Phần lớn các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt, khách thể của tội phạm bao gồm cả quan hệ về tài sản và quan hệ nhân thân, hay nói cách khác, các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt là tội phạm cùng một lúc xâm phạm hai khách thể, nhưng khách thể bị xâm phạm trước là quan hệ nhân thân, thông qua việc xâm phạm đến nhân thân mà người phạm tội xâm phạm đến quan hệ tài sản, nếu không xâm phạm đến quan hệ nhân thân thì người phạm tội không thể xâm phạm đến quan hệ tài sản được.
Do Phần lớn các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thể (quyền sở hữu tài sản của nhà nước, đơn vị, tổ chức, cá nhân và quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức khỏe của con người), nên trong cùng một vụ án có thể có thể có một người bị hại, nhưng cũng có thể có nhiều người bị hại, có người bị hại chỉ bị xâm phạm đến tài sản; có người bị hại bị xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự; có người bị hại bị xâm phạm đến cả tài sản, tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự
Bài viết dưới đây công ty Luật LVN Group sẽ gửi tới cho bạn một số thông tin về tội cưỡng đoạt tài sản để phần nào tháo gỡ vướng mắc cho quý bạn đọc
2.3/ Mặt khách quan của các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt:
– Các tội xâm phạm quyền sở hữu có có tính chiếm đoạt có sự khác nhau ở cách thức thể hiện hành vi, được thực hiện theo nhiều dạng khác nhau. Tuy nhiên các hành vi của tội xâm phạm quyền sở hữu đều có cùng tính chất là gây tổn hại cho quan hệ sở hữu, xâm phạm đến quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của chủ sở hữu tài sản, làm cho chủ tài sản mất khả năng thực hiện quyền sở hữu của mình. đồng thời vì có tính chiếm đoạt do đó hành vi của nhóm tội phạm này thường thể hiện qua những hành động nhằm đe dọa đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm của người bị hại để nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người đó một cách trái với ý muốn của họ.
Các hành vi chủ yếu của tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt là các hành vi chiếm đoạt, chiếm giữ trái phép, sử dụng trái phép tài sản của cá nhân, tổ chức sở hữu tài sản. Các hành vi này gây hậu quả là những tổn hại gây ra cho quan hệ sở hữu và thể hiện dưới dạng tổn hại vật chất. Đồng thời thông qua những hành vi mang tính cưỡng chế về mặt vũ lực để đạt được mục đích chiếm đoạt tài sản có thể gây ra hậu quả làm cho những quan hệ về sức khỏe, tính mạng, nhân phẩm của các chủ thể bị xâm phạm bị ảnh hưởng một cách nghiêm trọng.
2.4/ Mặt chủ quan của các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt
Các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt được chủ thể phạm tội thực hiện hành vi dưới lỗi cố ý. Trong từng tội phạm cụ thể sẽ có động cơ phạm tội khác nhau. Tuy nhiên, cần lưu ý đối với tội sử dụng trái phép tài sản, động cơ phạm tội không được mô tả trong cấu thành tội phạm cơ bản như các tội xâm phạm quyền sở hữu khác.
3/ Hình phạt đối với người phạm các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt
Hình phạt chính áp dụng cho các tội xâm phạm quyền sở hữu có nhiều mức độ khác nhau được quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự 2015. Trong đó, hình phạt được quy định thấp nhất là cải tạo không giam giữ đến 03 năm và cao nhất là hình phạt tù chung thân.
Hình phạt bổ sung áp dụng cho các tội xâm phạm quyền sở hữu được quy định cụ thể trong Bộ luật hình sự 2015, bao gồm: phạt tiền; tịch thu tài sản; cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; quản chế; cấm cư trú.
Mặt khác, khi xem xét quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc về mức độ nghiêm trọng của hành vi và hậu quả của tội xâm phạm quyền sở hữu, căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự cũng như quy định của pháp luật để quyết định hình phạt đúng đắn nhất.
4/Một số câu hỏi liên quan
4.1/ Đối tượng tác động của các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt là gì?
Đối tượng tác động chính của các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt là tài sản – đối tượng vật chất nhờ đó có sự tồn tại quan hệ sở hữu, bao gồm:
– Vật: vật chất của thế giới khách quan thuộc sở hữu của cá nhân, tổ chức, nhà nước.
– Tiền
– Giấy tờ có giá trị thanh toán bằng tiền: ATM, sổ tiết kiệm.
– Những giấy tờ thể hiện quyền về tài sản
Tài sản là đối tượng của tội xâm phạm quyền sở hữu phải là tài sản được pháp luật nói chung cũng như luật hình sự nói riêng bảo vệ.
Ngoài tài sản là đối tượng chính của nhóm tội phạm xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt thì còn có quan hệ về nhân thân cũng là đối tượng tác động chủ chủ yếu của nhóm tội phạm này. Ở một số tội danh cụ thể, quan hệ nhân thân là tiền đề, là cái có trước sau đó mới dẫn đến xâm phạm quyền sở hữu. Nói cách khác để tác động đến đối tượng là quyền sở hữu một số tội danh buộc phải tác động đến đối tượng là quan hệ nhân thân thì mới cấu thành tội phạm đó.
4.2/ Biểu hiện của dấu hiệu chiếm đoạt trong các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là gì?
Mục đích chiếm đoạt là yếu tố bắt buộc trong cấu thành các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt như cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, tội cưỡng đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, tùy vào từng tội cụ thể mà có biểu hiện mục đích chiếm đoạt khác nhau, tùy từng tội mà mục đích phạm tội có thể xuất hiện trước khi người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội, trong khi thực hiện hành vi phạm tội hoặc mục đích phạm tội có thể xuất hiện sau khi thực hiện hành vi phạm tội.
Hành vi làm cho chủ sở hữu tài sản mất hẳn khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của mình và tạo cho người chiếm đoạt có thể thực hiện được việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó được coi là hành vi chiếm đoạt. Xét về mặt thực tiễn, chiếm đoạt là quá trình vừa làm cho chủ tài sản mất tài sản vừa tạo cho người chiếm đoạt có tài sản đó. Xét về mặt pháp lý, thì quá trình này không làm cho chủ sở hữu mất quyền sở hữu của mình mà chỉ làm mất khả năng thực tiễn thực hiện các quyền cụ thể của quyền sở hữu.
4.3/ Các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt gồm những tội danh cụ thể nào?
Các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt được quy định tại chương XVI của Bộ luật hình sự 2015, bao gồm:
– Tội cướp tài sản Điều 168 Bộ Luật hình sự năm 2015.
– Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản Điều 169 Bộ Luật hình sự năm 2015.
– Tội cưỡng đoạt tài sản Điều 170 Bộ Luật hình sự năm 2015.
– Tội cướp giật tài sản Điều 171 Bộ Luật hình sự năm 2015.
– Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản Điều 172 Bộ Luật hình sự năm 2015.
– Tội trộm cắp tài sản Điều 173 Bộ Luật hình sự năm 2015.
– Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản Điều 174 Bộ Luật hình sự năm 2015.
– Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Điều 175 Bộ Luật hình sự năm 2015.
Trên đây là những nội dung liên quan đến các tội xâm phạm quyền sở hữu có tính chiếm đoạt. Luật LVN Group mong muốn đem lại những hiệu quả pháp lý cao nhất cho khách hàng. Hãy liên hệ với chúng tôi qua website: lvngroup.vn nếu bạn có câu hỏi về các vấn đề pháp lý liên quan.