Bàn về quyền “sống” trong Hiến pháp năm 2013 - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Bàn về quyền “sống” trong Hiến pháp năm 2013

Bàn về quyền “sống” trong Hiến pháp năm 2013

Bài viết dưới đây bàn về quyền “sống” trong Hiến pháp 2013. Hãy cùng LVN Group theo dõi nội dung trình bày dưới đây !.

Bàn về quyền “sống” trong Hiến pháp năm 2013

Quyền sống là gì?

Quyền con người là những quyền tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Và Quyền sống (the right to life) là một quyền tự nhiên, cơ bản của con người được ghi nhận trong các văn kiện cốt lõi của luật nhân quyền quốc tế và pháp luật quốc gia.

“Mọi người đều có quyền cố hữu là được sống. Quyền này phải được pháp luật bảo vệ. Không ai có thể bị tước mạng sống một cách tuỳ tiện”

Pháp luật quốc tế về quyền sống

Quyền sống (the right to life) là một quyền tự nhiên, cơ bản của con người được ghi nhận trong các văn kiện cốt lõi của luật nhân quyền quốc tế. Căn cứ, Điều 3 Tuyên ngôn Toàn thế giới về nhân quyền (UDHR) năm 1948 nêu rằng: “Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân”. Điều 6 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) cụ thể hóa Điều 3 UDHR, trong đó nêu rằng: “Mọi người đều có quyền cố hữu là được sống. Quyền này phải được pháp luật bảo vệ. Không ai có thể bị tước mạng sống một cách tuỳ tiện” (Khoản 1).

Bên cạnh ICCPR, một số công ước quốc tế khác về quyền con người cũng đề cập đến quyền sống, trong đó bao gồm Công ước về quyền trẻ em, Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng, Công ước về trấn áp và trừng trị tội ác a-pác-thai….

Đặc điểm, tính chất và nội hàm của quyền sống đã được Ủy ban Nhân quyền (Human Rights Committee – HRC – đơn vị được lập ra theo ICCPR để giám sát việc thực hiện công ước này của các quốc gia thành viên) đề cập trong Bình luận chung số 6 (thông qua tại phiên họp lần thứ 16 năm 1982), có thể tóm tắt những điểm cần thiết như sau:

– Quyền sống là “một quyền tối cao (supreme right) của con người mà trong bất cứ hoàn cảnh nào, kể cả trong tình trạng khẩn cấp của quốc gia, cũng không thể bị tạm đình chỉ (derogation) việc thực hiện…” (đoạn 1).

– Quyền sống không nên hiểu theo nghĩa hẹp chỉ là sự toàn vẹn về tính mạng mà hơn thế, quyền này bao gồm cả những khía cạnh nhằm bảo đảm sự tồn tại của con người. Theo cách tiếp cận đó, việc bảo đảm quyền sống còn đòi hỏi các quốc gia phải thực thi những biện pháp để làm giảm tỉ lệ chết ở trẻ em và tăng tuổi thọ bình quân của người dân, cụ thể như các biện pháp nhằm xóa bỏ tình trạng suy dinh dưỡng và các dịch bệnh… (đoạn 2), tức là bao gồm cả các biện pháp thụ động và chủ động để bảo đảm cuộc sống của người dân, đặc biệt là của những cá nhân và nhóm yếu thế.

– Một trong các nguy cơ phổ biến đe dọa quyền sống là chiến tranh và các tội phạm nghiêm trọng như diệt chủng hay tội phạm chống nhân loại. Vì vậy, việc chống chiến tranh và các tội phạm này cũng là sự bảo đảm quyền sống. Theo cách tiếp cận đó, việc bảo đảm quyền sống trong Điều 6 có mối liên hệ với nghĩa vụ cấm các hoạt động tuyên truyền chiến tranh và kích động hận thù, bạo lực nêu ở Điều 20 ICCPR (đoạn 3).

– Phòng chống những hành động tội phạm gây nguy hại hoặc tước đoạt tính mạng con người là biện pháp cần thiết để bảo đảm quyền sống. Các quốc gia thành viên cần tiến hành các biện pháp phòng chống và trừng trị việc tuỳ tiện tước đoạt tính mạng con người do bất kỳ chủ thể nào gây ra, kể cả do các đơn vị và viên chức nhà nước (đoạn 5). Liên quan đến vấn đề này, việc bắt cóc người và đưa đi mất tích cũng bị coi là một trong những cách thức tước đoạt quyền sống, do đó, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ đưa ra những biện pháp và kế hoạch hiệu quả để phòng chống và điều tra các vụ việc dạng này (đoạn 4).

Cũng liên quan đến quyền sống, ngoài Bình luận chung số 6, HRC còn thông qua Bình luận chung số 14 (phiên họp lần thứ 23 năm 1984) trong đó tái khẳng định tầm cần thiết của quyền sống, coi đó là cơ sở cho tất cả các quyền con người, đồng thời nhắc lại yêu cầu phải thực hiện Điều 6 của ICCPR trong mọi hoàn cảnh. Văn bản này nhấn mạnh rằng chiến tranh, đặc biệt là chiến tranh hạt nhân, là nguy cơ lớn nhất đe dọa quyền sống và yêu cầu các quốc gia hạn chế và chấm dứt các cuộc chạy đua vũ trang, đặc biệt là không thiết kế, thử nghiệm, chế tạo, tàng trữ, triển khai và sử dụng các loại vũ khí hạt nhân – những hành vi mà theo HRC cần bị coi là phạm tội ác chống nhân loại.

Những diễn giải nêu trên đã làm rõ một số khía cạnh pháp lý trong nội hàm của quyền sống. Mặc dù vậy, do quyền sống là một khái niệm rất rộng và phức tạp nên vẫn còn nhiều khía cạnh cụ thể khác liên quan đến các vấn đề như tử hình, nạo phá thai, an tử, giết người trong tình huống để tự vệ và trong chiến tranh còn đang được tranh cãi.

Chủ thể của quyền sống

Có quan điểm cho rằng quyền sống cần phải áp dụng cho cả con người và loài vật. Tuy nhiên, từ góc độ luật nhân quyền quốc tế, có thể thấy quyền sống chỉ áp dụng cho con người mà không mở rộng đến các loài vật khác. Điều này thể hiện rõ qua việc sử dụng các đại từ nhân xưng là everyone trong Điều 3 UDHR, every human being trong Điều 6 ICCPR mà đều có nghĩa là mọi người.

Có quan điểm cho rằng quyền sống có thể áp dụng với các pháp nhân. Tuy nhiên, trong những phán quyết có liên quan, Tòa án nhân quyền châu Âu đã khẳng định rằng quyền sống chỉ áp dụng cho các thể nhân. Pháp nhân (cùng với thể nhân) có thể được hưởng một số quyền con người như quyền sở hữu tài sản, quyền được tố tụng công bằng, quyền tự do biểu đạt, quyền tự do lập hội… nhưng không bao gồm quyền sống.

Có quan điểm cho rằng quyền sống áp dụng với cả các bào thai còn nằm trong bụng mẹ. Tuy nhiên, trong phán quyết về vụ X kiện Vương quốc Anh năm 1980, Tòa án Nhân quyền châu Âu cho rằng quyền sống về nguyên tắc không áp dụng với các bào thai người. Phán quyết này cũng có nghĩa là việc phá thai về mặt pháp lý không phải là sự vi phạm quyền sống. Mặc dù vậy, cần thấy là Công ước về quyền trẻ em (CRC) năm 1989 có quy định: ‘Trẻ em, do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt, kể cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời” (Lời nói đầu). Vì vậy, các quốc gia có nghĩa vụ bảo vệ sự sống của trẻ em từ khi còn là bào thai, song sự bảo vệ đó không đồng nghĩa với việc bảo vệ quyền sống của một tự nhiên nhân, mà thông thường thể hiện chủ yếu qua các chính sách chăm sóc sức khỏe của bà mẹ.

Một vấn đề nữa đặt ra đó là liệu quyền sống có thể áp dụng với người nước ngoài? Về câu hỏi này, như đã đề cập, chủ thể của quyền sống theo luật nhân quyền quốc tế là tất cả mọi người (everyone, every human being).Đại từ nhân xưng này cho thấy quyền sống không phải là đặc quyền dành riêng cho công dân của các quốc gia như các quyền bầu cử, ứng cử… mà còn là quyền của tất cả các cá nhân khác (công dân nước ngoài, người không quốc tịch, người tị nạn, người tìm kiếm cơ hội tỵ nạn…) hiện diện trên lãnh thổ của quốc gia. Vấn đề này cũng được quy định trong nhiều công ước quốc tế khác về nhân quyền, cụ thể như Công ước về vị thế của người tị nạn, Công ước về bảo vệ quyền của người lao động nhập cư và các thành viên trong gia đình họ, Công ước về quyền của người không quốc tịch…

 

Trên đây LVN Group đã đề cập đến quyền sống trong Hiến pháp 2013. Trong quá trình nghiên cứu nếu có vấn đề câu hỏi xin vui lòng liên hệ website của Công ty Luật LVN Group để được trả lời.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com