Quyền sở hữu là gì? Bảo lưu quyền sở hữu là gì? Sau đây mời bạn đọc cùng cân nhắc nội dung trình bày: Bình luận quy định về bảo lưu quyền sở hữu
Đối tượng và phạm vi bảo đảm của bảo lưu quyền sở hữu.
Đối tượng của bảo lưu quyền sở hữu.
Đối tượng của bảo lưu quyền sở hữu có những điều kiện giống điều kiện của tài sản mua bán. Đó là: phải là tài sản được phép giao dịch (tức là tài sản không thuộc loại bị cấm lưu thông); Tài sản đó phải thuộc sở hữu của người bán hoặc người bán có quyền bán (xuất phát từ việc chuyển quyền sở hữu này chính là việc bên bán thực hiện quyền định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu của mình – quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Tuy nhiên, người không phải chủ sở hữu tài sản cũng có quyền bán tài sản trong các trường hợp: Điều 299 BLDS 2015, bán đấu giá tài sản, trong hợp đồng gửi giữ tài sản); tài sản đó phải được xác định cụ thể về số lượng, chất lượng, chủng loại, mô tả đặc điểm,… (đây là yếu tố quyết định xem quan hệ hợp đồng có được xác lập được không); không phải là tài sản đang có tranh chấp về quyền sở hữu; không phải là tài sản đang bị kê biên để chờ thi hành án hoặc để thực hiện quyết định của đơn vị nhà nước có thẩm quyền; không phải là đối tượng của các biện pháp bào đảm khác.
Ngoài những điều kiện chung của tài sản mua bán, tài sản là đối tượng của bảo lưu quyền sở hữu còn phải thỏa mãn điều kiện riêng, đó là: nếu tài sản mua bán là vật thì phải là vật không tiêu hao[1]mới có thể xác lập bảo lưu quyền sở hữu. Bởi khi bên mua đã sử dụng tài sản thì tài sản không còn tồn tại hoặc nguyên vẹn như ban đầu,khi đó, nếu bên mua vi phạm nghĩa vụ thì bên bán không được bảo đảm về quyền của mình.
Phạm vi bảo đảm của bảo lưu quyền sở hữu.
Khoản 1 Điều 331 BLDS năm 2015 quy định “Trong hợp đồng mua bán, quyền sở hữu tài sản có thể được bên bán bảo lưu cho đến khi nghĩa vụ thanh toán được thực hiện trọn vẹn”. Quy định này gián tiếp cho thấy, biện pháp bảo lưu quyền sở hữu này chỉ có thể áp dụng đi kèm với hợp đồng mua bán tài sản. Trong khi đó, nếu chỉ xét về bản chất của tên gọi “bảo lưu quyền sở hữu”, có thể hình dung biện pháp này có thể áp dụng đi kèm với các giao dịch liên quan đến chuyển quyền sở hữu tài sản. Điều này có nghĩa là, đối với tất cả các giao dịch có liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu tài sản thì các chủ thể đều có thể thực hiện quyền “bảo lưu quyền sở hữu” của mình.
Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn nhận ở góc độ này thì chưa đủ, bảo lưu quyền sở hữu được áp dụng có tính chất của một biện pháp bảo đảm, tức là cùng với dấu hiệu nhận biết là áp dụng với các giao dịch mà trong đó có động tác chuyển quyền sở hữu tài sản còn cần thêm dấu hiệu là các giao dịch này phải làm phát sinh nghĩa vụ của bên được chuyển giao quyền sở hữu hay nói cách khác nó được hình thành trên cơ sở các hợp đồng song vụ. Với các phân tích trên, hợp đồng mua bán chỉ là loại điển hình của hợp đồng song vụ có chuyển giao quyền sở hữu tài sản. Bên cạnh đó, hợp đồng trao đổi tài sản theo hướng dẫn tại Điều 455 BLDS năm 2015 cũng có những tính chất như đã phân tích trên đây. Nếu áp dụng đúng quy định tại Điều 331 BLDS năm 2015, bảo lưu quyền sở hữu không được phép áp dụng đối với hợp đồng trao đổi tài sản.
Khoản 4 Điều 455 BLDS năm 2015 quy định: “Mỗi bên đều được coi là người bán đối với tài sản giao cho bên kia và là người mua đối với tài sản nhận về. Các quy định về hợp đồng mua bán từ Điều 430 đến Điều 439, từ Điều 441 đến Điều 449 và Điều 454 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng trao đổi tài sản”. Vì vậy, theo các quy định nêu trên, bảo lưu quyền sở hữu tài sản được áp dụng cả đối với hợp đồng trao đổi tài sản.
Hình thức của bảo lưu quyền sở hữu.
Khoản 2 Điều 331 BLDS năm 2015 quy định: “Bảo lưu quyền sở hữu phải được lập thành văn bản riêng hoặc được ghi trong hợp đồng mua bán”. Vì vậy, đây là một trong số ít các trường hợp mà pháp luật quy định cách thức phải bằng văn bản đối với giao dịch.
Việc yêu cầu xác lập bằng văn bản đối với biện pháp bảo lưu quyền sở hữu là một yêu cầu hợp lý. Bởi lẽ, cần có bằng chứng xác thực cho một hành vi đặc biệt của bên có nghĩa vụ chuyển giao quyền sở hữu tài sản trong việc không thực hiện nghĩa vụ này. Trên thực tiễn, yêu cầu này sẽ dẫn đến những trường hợp sau: Thứ nhất, hoàn toàn không có vấn đề gì nếu theo hướng dẫn của pháp luật hợp đồng mua bán hay hợp đồng trao đổi tài sản phải lập thành văn bản, khi đó điều khoản bảo lưu quyền sở hữu được ghi vào văn bản – hợp đồng mua bán. Thứ hai, trong trường hợp hợp đồng mua bán không buộc phải xác lập bằng văn bản, khi đó các bên sẽ có hai lựa chọn: Một là, xác lập hợp đồng mua bán bằng văn bản (mặc dù luật không yêu cầu) và tương ứng với hợp đồng này là điều khoản hay hợp đồng bảo lưu quyền sở hữu; hai là, chấp nhận tình trạng hợp đồng mua bán lập bằng miệng nhưng hợp đồng (hay điều khoản) bảo lưu quyền sở hữu lại xác lập bằng văn bản.
Tuy nhiên, trong trường hợp khi gia kết hợp đồng, các bên có thỏa thuận nhưng không xác lập bằng văn bản thì xảy ra hai trường hợp: thứ nhất, bên bán chưa giao tài sản hoặc bên mua chưa trả tiền hoặc các bên thực hiện hợp đồng chưa hết 2/3 nghĩa vụ thì hợp đồng phụ là bảo lưu quyền sở hữu sẽ không có hiệu lực; thứ hai, bên bán đã giao tài sản hoặc bên mua đã trả tiền tương ứng với 2/3 số tiền phải trả thì thỏa thuận về bảo lưu quyền sở hữu vẫn có giá trị.
Hiệu lực của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu.
Điều kiện có hiệu lực của bảo lưu quyền sở hữu.
Xét về bản chất, thỏa thuận về bảo lưu quyền sở hữu chính là một loại giao dịch dân sự (một loại hợp đồng). Bởi có cách thức bằng văn bản, hình thành theo sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng mua bán. Do đó, điều kiện có hiệu lực của bảo lưu quyền sở hữu giống với điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự (Điều 117 BLDS 2015).
Thời điểm phát sinh hiệu lực của bảo lưu quyền sở hữu.
Biện pháp bảo lưu quyền sở hữu phải được xác lập trước thời gian thực hiện việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản. Do đó, thời gian phát sinh hiệu lực của bảo lưu quyền sở hữu chỉ có thể là thời gian các bên thỏa thuận hoặc thời gian giao kết.
Hiệu lực đối kháng với người thứ ba của bảo lưu quyền sở hữu
Khoản 3 Điều 331 BLDS năm 2015 quy định “Bảo lưu quyền sở hữu phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời gian đăng ký”. Khi biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba thì bên nhận bảo đảm có quyền truy đòi tài sản bảo đảm và được quyền ưu tiên thanh toán.
Vì vậy, việc đăng ký bảo lưu quyền sở hữu không được xem như một quy định bắt buộc về cách thức để thoả thuận này có hiệu lực. Nó chỉ là cơ sở để làm phát sinh giá trị đối kháng của biện pháp bảo lưu quyền sở hữu với người thứ ba. Điều này có nghĩa là nếu không được đăng ký, biện pháp bảo đảm này chỉ có giá trị trong quan hệ giữa các bên tham gia giao dịch.
Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ bảo lưu quyền sở hữu.
Quyền và nghĩa vụ của bên bán tài sản.
Về quyền của bên bán:
Thứ nhất, quyền đòi lại tài sản.
Điều 332 BLDS năm 2015 quy định “Trường hợp bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán cho bên bán theo thỏa thuận thì bên bán có quyền đòi lại tài sản. Bên bán hoàn trả cho bên mua số tiền bên mua đã thanh toán sau khi trừ giá trị hao mòn tài sản do sử dụng. Trường hợp bên mua làm mất, hư hỏng tài sản thì bên bán có quyền yêu cầu bồi thường tổn hại”.
Trên thực tiễn, việc áp dụng điều khoản bảo lưu quyền sở hữu trong thời gian qua hay bị nhầm lẫn với một kỹ thuật khác có cơ chế gần tương tự. Việc bảo lưu quyền sở hữu thường đi kèm với việc trả chậm (hay thanh toán nhiều lần trong thời gian kéo dài), nhưng không phải tất cả các trường hợp trả nhiều lần (trả góp) đều là bảo lưu quyền sở hữu. Có thể hình dung qua ví dụ đơn giản, A mua căn hộ chung cư của nhà đầu tư B, vì không có tiền thanh toán một lần, với hỗ trợ của nhà đầu tư, A được vay tiền với lãi suất ưu đãi của ngân hàng C với thoả thuận là căn hộ sẽ được thế chấp cho ngân hàng C và A sẽ thanh toán tiền vay bằng cách thức trả chậm. Với tình huống này, chúng ta có trong thực tiễn việc “trả chậm” nhưng không có việc bảo lưu quyền sở hữu mà là một hợp đồng “mua đứt, bán đoạn”. Do đó, nếu vì lý do gì đó A không thể tiếp tục thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng C thì C chỉ có thể tiến hành các thủ tục đòi nợ hoặc yêu cầu xử lý tài sản thế chấp là căn hộ mà A đã mua chứ không có quyền lấy lại tài sản như quy định tại Điều 332 BLDS năm 2015 nêu trên.
Vậy, quyền lấy lại tài sản theo hướng dẫn được hiểu thế nào? Với điều khoản bảo lưu quyền sở hữu thì bên có quyền vẫn luôn là chủ sở hữu tài sản. Trong trường hợp này, bản thân quyền sở hữu tài sản là đối tượng của giao dịch bảo đảm để bảo đảm cho nghĩa vụ thanh toán của bên mua. Vì vậy, nếu người mua hoàn tất nghĩa vụ thanh toán, quyền sở hữu được chuyển giao, ngược lại, nếu vi phạm nghĩa vụ thanh toán, với tư cách là chủ sở hữu, bên bán được lấy lại tài sản. Tính chất bảo đảm cao hơn rất nhiều lần so với các biện pháp bảo đảm thông thường (như cầm cố, thế chấp).
Thứ hai, quyền yêu cầu bồi thường tổn hại. Phát sinh quyền yêu cầu bồi thường tổn hại của bên bán khi xảy ra một trong hai trường hợp sau: thứ nhất, tài sản bị mất hoặc hư hỏng đến mức không thể khắc phục, sửa chữa (bên mua bồi thường cho bên bán giá trị của tài sản); thứ hai, tài sản bị hư hỏng nhưng có thể sửa chữa được (khi đó bên bán đòi lại tài sản và bên mua phải chịu chi phí sửa chữa).
Về nghĩa vụ của bên bán: theo hướng dẫn Điều 332 BLDS năm 2015, bên bán có nghĩa vụ hoàn trả cho bên mua số tiền bên mua đã thanh toán sau khi trừ giá trị hao mòn tài sản do sử dụng khi bên mua đã trả lại tài sản cho bên bán. Nghĩa vụ này của bên bán không phải thực hiện trong trường hợp bên mua không hoàn trả tài sản cho bên bán hoặc tài sản bị tổn hại mà số tiền bồi thường bên mua phải chịu lớn hơn hoặc bằng số tiền bên mua đã trả hoặc giá trị hao mòn do sử dụng tài sản lớn hơn hoặc bằng số tiền bên mua đã trả cho bên bán.
Quyền và nghĩa vụ của bên mua tài sản.
Về quyền của bên mua tài sản:
Bên mua có quyền sử dụng tài sản và hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu có hiệu lực, đồng thời phải chịu rủi ro về tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Về nghĩa vụ của bên mua tài sản:
Khoản 2 Điều 333 BLDS 2015 quy định: “Chịu rủi ro về tài sản trong thời hạn bảo lưu quyền sở hữu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Theo đó, việc bên nào phải chịu rủi ro đối với tài sản trước hết vẫn do các bên thỏa thuận, tuy nhiên, nếu không có thỏa thuận thì sẽ thuộc nghĩa vụ của bên bán. Xuất phát từ nguyên nhân thực tiễn là bên mua có quyền sử dụng tài sản, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản thì việc gánh chịu rủi ro đối với tài sản là hoàn toàn hợp lý.
Chấm dứt bảo lưu quyền sở hữu.
Căn cứ chấm dứt bảo lưu quyền sở hữu có hai căn cứ: thỏa thuận hoặc luật định. Theo quy định tại Điều 334 BLDS năm 2015 thì bảo lưu quyền sở hữu có thể chấm dứt theo một trong ba trường hợp, đó là: bên mua đã hoàn thành nghĩa vụ thanh toán, bên bán nhận lại tài sản bảo lưu quyền sở hữu và theo thỏa thuận của các bên.
Thông thường, khi bên mua thanh toán trọn vẹn tiền mua thì có quyền sở hữu đối với tài sản mua, cho nên bảo lưu quyền sở hữu sẽ chấm dứt. Trường hợp bên mua không thể hoặc cố tình không thanh toán hết tiền mua còn lại, thì bên bán sẽ đòi lại tài sản và biện pháp bảo lưu quyền sở hữu cũng chấm dứt. Bảo lưu quyền sở hữu cũng chấm dứt nếu các bên thỏa thuận chấm dứt nghĩa vụ trả tiền của bên mua (trường hợp này bên bán xóa nợ số tiền chưa thanh toán cho bên mua, cho phép bên mua có quyền sở hữu trọn vẹn đối với tài sản
Mặc dù BLDS chỉ quy định về ba trường hợp chấm dứt bảo lưu quyền sở hữu. Tuy nhiên, trên thực tiễn, bảo lưu quyền sở hữu còn có thể chấm dứt trong các trường hợp khác như: tài sản bảo lưu quyền sở hữu không còn, bảo lưu quyền sở hữu được thay thế bằng một biện pháp bảo đảm khác,…