Pháp luật dân sự nước ta ra đời và ngày càng được ghi nhận trọn vẹn và hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi từ thực tiễn cuộc sống. Luật LVN Group xin gửi đến quý bạn đọc nội dung trình bày: “Lịch sử phát triển của pháp luật dân sự qua các thời kỳ”.
1. Giai đoạn trước năm 1945
Trong thời kỳ phong kiến, Việt Nam không có sự phân biệt thành các ngành luật nên các quan hệ xã hội thường được điều chỉnh bằng một bộ luật chung. Điển hình nhất trong giai đoạn phong kiến nước ta phải kể đến Bộ Quốc triều hình luật dưới thời nhà Lê và và Bộ luật Gia Long dưới thời nhà Nguyễn.
Dưới thời Lê, pháp luật dân sự được xây dựng và hoàn thiện với sự quan tâm đặc biệt. Mặc dù Bộ Quốc triều hình luật tập trung quy định các vấn đề về hình sự nhưng Bộ Quốc triều hình luật dành hẳn hai chương – Hộ hôn và Điền sản – để nói không chỉ về hôn nhân, gia đình, ruộng đất mà còn cả về chế độ tài sản của vợ, chồng, thừa kế, tặng cho và di chúc, hương hỏa, nghĩa vụ, hợp đồng… Ngoài hai chương này, một số quy định dân sự cũng nằm rải rác ở các chương khác hoặc trong các văn bản luật riêng lẻ mà không được đưa vào Bộ luật. Vì vậy, dưới thời nhà Lê, pháp luật dân sự Việt Nam đã được xây dựng và bước đầu được quan tâm ghi nhận, đặc biệt là những quy tắc liên quan đến hôn nhân, chế độ tài sản của vợ, chồng và thừa kế.
Đến thời Nguyễn, Bộ luật Gia Long giải quyết các vấn đề dân sự như là một phần của những vấn đề lớn hơn về gia đình, hành chính và hình sự. Trong thời gian áp dụng Bộ luật Gia Long, người làm luật thời Nguyễn có bổ sung một số quy định về dân sự trong các lĩnh vực thừa kế, khế ước, hôn nhân và gia đình nhưng đó chỉ là những bổ sung rất nhỏ lẻ, không mang tính hệ thông.
Đến thời kỳ Pháp thuộc, Pháp chia nước ta thành 3 kỳ để dễ bề cai trị gồm: Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ. Theo đó, mỗi một kỳ chịu sự điều chỉnh bởi một bộ luật riêng. Bộ luật dân sự Nam Kỳ giản yếu năm 1883 áp dụng cho các tỉnh thuộc Nam kỳ; Bộ dân luật Bắc Kỳ năm 1931 áp dụng cho các tỉnh thuộc Bắc kỳ và Bộ dân luật Trung Kỳ năm 1936 ((Hoàng Việt Hộ luật) áp dụng cho các tỉnh thuộc Trung kỳ.
Bộ luật Dân sự hiện hành có những thay đổi gì so với Bộ luật Dân sự năm 2005 trước đó? Sau đây là phần phân tích một số điểm mới của Bộ luật Dân sự năm 2015 so với Bộ luật Dân sự năm 2005.
2. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1980
Đây là giai đoạn giành độc lập của nước ta với dấu mốc cần thiết ngày tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà – ngày 2/9/1945. Tiếp đến là những cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân dân Pháp, đế quốc Mỹ và kết thúc vào ngày 30/4/1975 khi đất nước thống nhất, không còn phân chia hai miền Nam, Bắc.
Sau ngày nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập, trong bối cảnh đất nước vừa được thành lập, chưa kịp ban hành các văn bản pháp luật nên ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành sắc lệnh 90/SL cho phép tạm thời sử dụng một số luật lệ hiện hành ở Bắc – Trung – Nam để điều chỉnh các vấn đề về dân sự. Với sắc lệnh trên, các Bộ luật Dân sự ban hành trong thời kỳ thuộc Pháp được tiếp tục thi hành nếu “những luật lệ ấy không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chỉnh thế dân chủ cộng hòa”. Do đó, trong thời kỳ đầu thành lập, các quan hệ dân sự của nước ta được điều chỉnh bởi ba Bộ Dân luật là Bộ dân luật Bắc Kỳ năm 1931, Bộ dân luật Trung Kỳ năm 1936, và Bộ dân luật Nam Kỳ giản yếu năm 1883 tương ứng ba miền là miền Bắc, miền Trung và miền Nam.
Trong giai đoạn này, đánh dấu sự ra đời của bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta – Hiến pháp năm 1946 – được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thông qua ngày 9/11/1946. Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận nhiều Điều luật cần thiết trong lĩnh vực dân sự tại Chương 2 về “Nghĩa vụ và quyền lợi của công dân
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, để điều hành công việc Nhà nước và điều chỉnh các giao lưu dân sự trong điều kiện và hoàn cảnh mới, nhiều sắc lệnh đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký và ban hành. Trong lĩnh vực dân sự, sắc lệnh Sắc lệnh 97/SL ngày 22/5/1950 về “Sửa đổi một sổ quy lệ và chế định trong Luật Dân sự” được ký và ban hành có ý nghĩa đặc biệt cần thiết trong việc điều chỉnh các quan hệ dân sự phát sinh trong đời sống xã hội. sắc lệnh này sửa đổi, bổ sung một số vấn đề trong các bộ dân luật cũ cho phù hợp với thực tiễn của xã hội nước ta trong thời kỳ đó. Sắc lệnh chỉ có tổng thể có 15 điều nhưng chứa đựng nhiều nguyên tắc cần thiết, nền tảng của luật dân sự.
Tại Điều 1 của Sắc lệnh 97/SL khẳng định: “Những quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người ta hành sự nó đúng với quyền lợi của nhân dân ”.
Điều 2 quy định về quyền tự do kết hôn của người chưa thành niên: “Người con đã thành niên không bắt buộc phải có cha mẹ bằng lòng mới kết hôn được ”.
Mặt khác, Điều 3 cho phép lấy vợ chồng trong thời kỳ tang chế: “Song người vợ hoá chỉ có thể lấy chồng sau 10 thảng kể từ ngày chồng chết. Nhưng trong thời hạn ấy, người vợ hoá vẫn có thể tái giá nếu chứng rõ được rằng mình không có thai, hoặc là đã có thai với chồng trước để tránh sự lẫn lộn về con cải”.
Điều 4 thể hiện sự tiến bộ khi ghi nhận: “Người đàn bà ly dị có thể lẩy chồng khác ngay sau khi có án tuyên ly dị, nếu dẫn chứng rằng mình không có thai hoặc đưorng có thai ”.
Điều 5 đặt nền móng cho sự bình đẳng của vợ chồng trong gia đình: “Chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia đình
Điều 6 ghi nhận và bảo vệ quyền của người đàn bà: “Người đàn bà có chồng có toàn năng lực về mặt hộ”.
Điều 7 quy định về người vị thành niên và quyền của họ khi đến tuổi trưởng thành: “Người vị thành niên là con trai hay con gái chưa đủ 18 tuổi. Khỉ đã đến tuổi thành niên thì dù còn ở với cha mẹ, người con cũng có quyền tự lập ”.
Điều 8 quy định về vấn đề quan hệ giữa cha mẹ và con cái: “Cha mẹ không có quyền xin giam cầm con cái”.
Điều 9 của sắc lệnh bảo vệ quyền của người con hoang: “Người con hoang vô thừa nhận được phép thưa trước toà án để truy nhận cha hoặc mẹ của mình”.
Điều 10 và Điều 11 quy định liên quan đến vấn đề thừa kế: “Con cháu hoặc vợ chồng của người chết cũng không bắt buộc phải nhận thừa kế người ẩy. Khi nhận thừa kế thì các chủ nợ của người chết cũng không có quyền đòi nợ quá sô di sản để lại”’,
Điều 11: ‘‘Trong lúc còn sinh thời người chồng goá vợ hay vợ goả, các con đã thành niên có quyền xỉn chìa phần tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết, sau khi đã thanh toán tài sản chung”.
Điều 12 quy định nguyên tăc chung về việc hưởng dụng và sử dụng tài sản thuộc sở hữu của mình: ‘‘Người ta chỉ dược hưởng dụng và sử dụng các vật thuộc quyền sở hữu của mình một cách hợp pháp và không tổn hại đến quyền lợi của nhân dân”.
Điểu 13 quy định về nguyên tắc lập khế ước: “Khi lập ước mà có sự tổn thiệt do sự bóc lột của một bên vì điều kiện kinh tế của hai bên chênh lệch thì khế ước có thể coi là vô hiệu”. Mặc dù với số lượng điều luật không nhiều, chỉ hơn 10 điều nhung nhiều vấn đề trong lĩnh vực dân sự đã được đề cập đến như liên quan tới năng lực chủ thể, hôn nhân – gia đình, các mối quan hệ giữa vợ chồng, cha mẹ với con cái, vấn đề về sở hữu, thừa kế và khế ước.
Bên cạnh đó, Điều 14 của sắc lệnh số 97/SL đã quy định rõ: “Tất cả các điều khoản trong dân pháp điển Bắc kỳ dân pháp điển Trung kỳ, Pháp quy giản yếu 1883 (sắc lệnh ngày 3 tháng 10 năm 1883) thi hành ở Nam kỳ, và những luật lệ theo sau, trái với những điểu khoản trên này đều bị bãi bỏ”. Nhiều nguyên tắc thật sự dân chủ, tiến bộ mang tính nhân dân sâu sắc thể hiện sự bình đẳng của vợ chồng trong sắc lệnh này được kế thừa, bổ sung và phát triển trong Bộ luật dân sự ngày nay.
Đến năm 1959, việc áp dụng ba Bộ Dân luật được chấm dứt hoàn toàn bởi Chỉ thị 772/CT – TATC ngày 10/7/1959. Đây là Chỉ thị về vấn đề “Đình chỉ áp dụng luật pháp cũ của đế quốc và phong kiến ”. Nội dung chính của chỉ thị như sau:
“Sau khi cách mạng tháng 8 thắng lợi, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thành lập, chính quyền cách mạng, theo sắc lệnh số 47 ngày 10-10-1945 vẫn còn cho phép áp dụng một số điều luật cũ của đế quốc và phong kiến, với điều kiện là không trải với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dần chủ cộng hòa. Đó là một việc cần thiết trong điều kiện lúc bấy giờ. Các Tòa án đã căn cứ vào chỉnh sách của Đảng và Chính phủ, tinh thần độc lập và dân chủ của Hiến pháp của năm 1946, án lệ của các tòa án để xét xử. Điều luật cũ chỉ được vận dụng trong khỉ thật cần thiết, và với tinh thần của chỉnh sách và đường lối mới. Nhưng từ ngày hòa bình lập lại, cách mạng chuyển giai đoạn, luật pháp, các chỉnh sách, đường lối để tiến hành nhiệm vụ cách mạng, mỗi ngày càng nhiều. Những điều luật của đế quốc và phong kiến dù là hiểu và áp dụng với tỉnh thần mới chẳng những là không còn thích hợp được nữa, mà trái lại không khỏi gây ra nhiều tác hại trong công tác. Cho nên Thông tư số 19/VHH-HS ngày 30- 6-1955 của Bộ Tư pháp đã yêu cầu các tòa án không nên áp dụng luật lệ của đế quốc và phong kiến nữa…Để xét xử các vụ án hình sự và dân sự, cần áp dụng luật pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành từ trước đến giờ (luật, sắc lệnh, nghị định, thông tư…) đường lối chính sách của Đảng và Chỉnh phủ, án lệ của các tòa án, của Tòa án Tối cao. Trường hợp không giải quyết được thì sẽ báo cáo ỉên Toà án Tối cao để có ý kiến giúp đỡ”.
Trải qua một thời gian áp dụng, Hiến pháp năm 1946 cần có sự thay đổi để phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước ta nên Hiến pháp năm 1959 ra đời. Một số nội dung của luật dân sự được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1959 như liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân.
Đồng thời với sự ra đời của Hiến pháp năm 1959, Luật Hôn nhân và Gia đình được ban hành và có hiệu lực từ ngày 13/1/1960. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 có hiệu lực thi hành từ ngày 13/01/1960 đến ngày 03/01/1987 (miền Bắc) hoặc từ ngày 25/03/1977 đến ngày 03/01/1987 (miền Nam). Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 quy định nhiều nguyên tắc cần thiết được ghi nhận và kế thừa đến ngày nay như: Nhà nước bảo đảm việc thực hiện trọn vẹn chế độ hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ một chồng, nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con cái, nhằm xây dựng những gia đình hạnh phúc, dân chủ và hoà thuận, trong đó mọi người đoàn kết, thưong yêu nhau, giúp đỡ nhau tiến bộ (Điều 1); Xoá bỏ những tàn tích còn lại của chế độ hôn nhân phong kiến cưỡng ép, trọng nam khinh nữ, coi rẻ quyền lợi của con cái (Điều 2); cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự do, yêu sách của cải trong việc cưới hỏi, đánh đập hoặc ngược đãi vợ; cấm lấy vợ lẽ (Điều 3)…
Mặt khác, một loạt các văn bản pháp luật dân sự được ban hành nhưng chỉ dưới luật ở dạng Thông tư, Chỉ thị, Điều lệ… Nhìn chung, “các văn bản pháp luật dân sự trong giai đoạn này chủ yếu thể hiện mục tiêu phục vụ công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đẩu tranh chống đế quốc Mỹ ở miền Nam. Sau ngày 30/4/1975, cả nước bắt tay vào công cuộc xây dựng đất nước. Văn bản pháp luật dân sự trong giai đoạn này không có những nội dung mới, mệnh lệnh, hành chỉnh, áp đặt trong văn bản pháp luật dân sự vẫn được coi là đặc trưng của thời kỳ này ”.
3. Giai đoạn từ sau năm 1980 đến trước năm 1995
Trước yêu cầu của thực tiễn xã hội, Hiến pháp năm 1959 được tiến hành sửa đổi. Đến tháng 8/1979, bản Dự thảo Hiến pháp mới được đưa ra lấy ý kiến nhân dân cả nước. Ngày 18/12/1980, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa VI đã nhất trí thông qua Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp năm 1980 chứa đựng nhiều quy định cần thiết trong lĩnh vực dân sự như: Chương 2 về Chế độ kinh tế, tại Điều 27 quy định,- “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân về thu nhập hợp pháp, của cải đế dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, những công cụ sản xuất dùng trong những trường hợp được phép lao động riêng lẻ. Pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản của công dân”’, Chương 5 về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân;…
Trong giai đoạn này, nhiều luật và pháp lệnh được Quốc hội và Hội đồng Nhà nước ban hành như Luật Hôn nhân và Gia đình (1986), Luật Quốc tịch (1988), Pháp lệnh Chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam (1988), Pháp lệnh về Sở hữu công nghiệp (1989), Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế (1989), Pháp lệnh về Thừa kế (1990), Pháp lệnh về Hợp đồng dân sự (1991), Pháp lệnh về Nhà ở (1991), Pháp lệnh Xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, đi lại của người nước ngoài tại Việt Nam (1992).
Tiếp theo đó, Nhà nước ta ban hành Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kì đổi mới – Hiến pháp năm 1992. Trên cơ sở bản Hiến pháp này, hàng loạt các văn bản pháp luật đã được ban hành, sửa đổi như Luật Đất đai năm 1993; Pháp lệnh về Quyền và nghĩa vụ của các tổ chức trong nước được giao đất, cho thuê đất; Pháp lệnh về Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất tại Việt Nam; Pháp lệnh Bảo hộ quyền chuyên gia năm 1994; Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1994; Bộ luật Lao động năm 1994. Để hướng dẫn các luật, các pháp lệnh, Chính phủ ban hành nhiều nghị định, ngoài ra các bộ, đơn vị ngang bộ ban hành nhiều thông tư hướng dẫn Nghị định.
Mặc dù nhiều văn bản thuộc các lĩnh vực khác nhau được ban hành như Bộ luật Dân sự chưa được ra đời trong thời kỳ này. Do đó, các quy định trong lĩnh vực dân sự vẫn mang tính chất tản mát, chưa được quy định hệ thống và nhiều vấn đề chưa được ghi nhận.
4. Giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2005
Đây là giai đoạn đánh dấu sự ra đời của Bộ luật Dân sự đầu tiên của nước ta – Bộ luật Dân sự năm 1995. Sự ra đời của Bộ luật Dân sự năm 1995 là hoàn toàn cần thiết, xuất phát từ nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn.
Trong Tờ trình của Chính phủ về Dự án Bộ luật Dân sự năm 1995 của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam cũng nêu: Cũng do thiếu pháp luật dân sự nên trên thực tiễn đã xảy ra không ít những trường hợp xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp, gây tổn hại cho tài sản cá nhân, tập thể và Nhà nước, xúc phạm danh dự, uy tín của cá nhân, tổ chức mà chưa được Nhà nước bảo hộ một cách thích đáng, độ an toàn pháp lý của mỗi công dân và tổ chức trong sinh hoạt cộng đồng còn thấp, ảnh hưởng không nhỏ đến lòng tin của nhân dân đối với chính quyền, gây nên sự hiểu lầm về bản chất của chế độ. Thực tế phát triển của các quan hệ hợp tác kinh tế với nước ngoài cũng cho thấy, pháp luật trong nhiều vấn đề chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra, nhất là các vấn đề về xác định địa vị pháp lý của người nước ngoài tại Việt Nam, đa dạng hóa hơn nữa các cách thức đầu tư, vấn đề thuê đất, sở hữu và thừa kế tài sản của người nước ngoài tại Việt Nam làm ảnh hưởng trực tiếp đến độ tin cậy của môi trường pháp lý – một yếu tố rất cần thiết không thể thiếu của môi trường đầu tư, kinh doanh nói chung. Tình hình nêu trên cho thấy cần thiết phải sớm ban hành Bộ luật Dân sự nhằm các mục tiêu sau:
Trước hết, tiến hành pháp điển hóa một bước cần thiết pháp luật dân sự nước nhà, tạo ra một văn bản pháp luật thống nhất, có hiệu lực pháp lý cao nhằm khắc phục tình trạng tản mạn, trùng lặp, mâu thuẫn, thiếu đồng bộ của pháp luật dân sự hiện nay và tiến tới hoàn thiện lĩnh vực này, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội của nước ta hiện nay cũng như trong nhiều năm tiếp theo.
Sau đó, tạo ra các chuẩn mực về cách ứng xử của cá nhân, tổ chức khi tham gia quan hệ dân sự, kịp thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích xã hội. Đồng thời, tạo cơ sở pháp luật hết sức cần thiết cho công tác xét xử của các đơn vị tài phán, bảo đảm xét xử công minh, khách quan và đúng pháp luật. Tiến hành một bước cơ bản tiêu chuẩn hóa các khái niệm và phạm trù pháp lý dân sự – một tiền đề không thể thiếu cho sự phát triển lâu dài khoa học pháp luật dân sự, làm cơ sở xây dựng ngành pháp luật dân sự hoàn chỉnh, thực sự trở thành công cụ cần thiết thúc đẩy nền kinh tế thị trường văn minh phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tiếp đến, tạo tiền đề cho pháp luật dân sự nước ta vừa tính đến, tiếp thu những thành tựu – tinh hoa của pháp luật dân sự ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, vừa thể hiện trọn vẹn các đặc thù của tình hình và giai đoạn phát triển hiện nay của xã hội ta theo đường lối đổi mới, vận dụng, kế thừa các truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc hình thành qua nhiều thế hệ trong sinh hoạt dân sự cộng đồng truyền đến ngày nay, kịp thời và đúng đắn xử lý các vấn đề mà thực tiễn đang đặt ra, phục vụ có hiệu quả chủ trương đẩy mạnh giao lưu quốc tế, nhất là trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa – xã hội (“Tờ trình của Chỉnh phủ về dự án Bộ luật Dân sự năm 1995 cùa nước CHXHCN Việt Nam”, Nguồn: Văn kiện Quốc Hội toàn tập vni (1192 – 1997) Quỵển 2 1994 – 1995).
Với các lý do trên, Bộ luât Dân sự năm 1995 được ban hành và có hiệu lực từ ngày 1/7/1996 đánh dấu một bước phát triển lớn trong quá trình lập pháp của Nhà nước ta. Bộ luật Dân sự có quy mô lớn nhất trong các bộ luật từ trước đến nay nhưng vì phạm vi điều chỉnh của Bộ luật quá rộng lớn và đa dạng, phức tạp cho nên cần phải có rất nhiều các văn bản dưới luật hướng dẫn thực hiện. Qua 10 năm thi hành, Bộ luật Dân sự năm 1995 đã phát huy vai trò to lớn trong việc tạo lập hành lang pháp lí điều chỉnh các quan hệ dân sự, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, lợi ích Nhà nước và lợi ích công cộng.
Bộ luật Dân sự năm 1995 với tổng thể 7 phần, 838 điều luật: Phần thứ nhất, những quy định chung ghi nhận những nguyên tắc cơ bản của luật dân sự, quy định về cá nhân, quyền nhân thân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ họp tác, giao dịch dân sự, uỷ quyền, thời hạn, thời hiệu; phần thứ hai, quy định về tài sản và quyền sở hữu; phần thứ ba, quy định về hợp đồng và nghĩa vụ dân sự; phần thứ tư, quy định về thừa kế; phần thứ năm, những quy định về chuyển quyền sử dụng đất; Phần thứ sáu, các quy định về quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ; phần thứ bảy, quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
5. Giai đoạn từ sau năm 2005 đến nay
Sau một thời gian áp dụng, Bộ luật Dân sự năm 1995 cũng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập như sau: Hiệu lực áp dụng của Bộ luật Dân sự đã bị hạn chế rất nhiều do nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành đều khoanh vùng áp dụng, một số quy định trong Bộ luật dân sự không còn phù hợp với thực tiễn, có những quy định không rõ ràng hoặc không trọn vẹn, quy định quá chung chung. Trong Bộ luật Dân sự 1995 còn có những quy định mang tính hành chính… Mặt khác, nhiều luật mới được ban hành có những nội dung liên quan đến các vấn đề dân sự nhưng trong Bộ luật Dân sự không có quy định dẫn đến sự mâu thuẫn, bất cập trong hệ thống pháp luật. Mặt khác, Bộ luật Dân sự năm 1995 còn có những quy định chưa tương thích với các Điều ước quốc tế và Thông lệ quốc tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Để khắc phục tình trạng này, Nhà nước ta đã tiến hành sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự năm 1995 và ngày 14/6/2005 Quốc hội khoá XI kì họp thứ 7 đã thông Bộ luật Dân sự năm 2005, có hiệu lực từ ngày 01/01/2006. So với Bộ luật dân sự 1995, Bộ luật Dân sự năm 2005 có nhiều điểm mới tiến bộ, nhiều quy định cụ thể và tuơng thích với pháp luật và thông lệ quốc tế hơn. Trong Tờ trình về dự án Bộ luật Dân sự (sửa đổi -“Tờ trình về dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi) ” của Chính phủ trình ủy ban Thường vụ Quôc hội cho ý kiến tại Phiên họp thứ 31, tháng 9-2014) của Chính phủ cũng đã tổng kết lại các kết quả mà Bộ luật Dân sự năm 2005 đã đạt được gồm:
Thứ nhất, Bộ luật Dân sự đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) về tôn trọng, bảo vệ quyền công dân trong lĩnh vực dân sự; về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua việc ghi nhận sự tồn tại của nhiều cách thức sở hữu trong nền kinh tế nước ta, sự đa dạng và đồng bộ của các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu; hoàn thiện thêm một bước các quy định về quyền của người không phải là chủ sở hữu; ghi nhận sự bình đẳng giữa các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế;
Thứ hai, Bộ luật Dân sự đã góp phần thúc đẩy sự hình thành, phát triển của quan hệ thị trường thông qua việc ghi nhận nguyên tắc tự do hợp đồng; hạn chế sự can thiệp quá mức của đơn vị công quyền vào quá trình hình thành, tồn tại và vận động của các quan hệ hàng hóa – tiền tệ; tạo cơ chế pháp lý để thực hiện tư tưởng của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bô sung năm 2001). Nhờ có các quy định có tính chất nền tảng này mà về cơ bản, các quan hệ thị trường ở nước ta trong thời gian qua đã từng bước hình thành, phát triển;
Thứ ba, nhiều quy định trong Bộ luật Dân sự đã có tính tương thích với thông lệ quốc tế, góp phần thúc đẩy giao lưu dân sự, thương mại giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, góp phần thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về hội nhập quốc tế;
Thứ tư, đối với hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ tư (pháp luật tư), Bộ luật Dân sự bước đầu đã thể hiện được vai trò là luật chung, luật nền tảng. Có được vai trò này là nhờ các quy định của Bộ luật Dân sự đã ghi nhận được những nguyên tắc và quy định cơ bản của việc điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ tư; Đồng thời, đã bao quát được tương đối trọn vẹn các vấn đề của đời sống dân sự.
Nhờ vậy, Bộ luật Dân sự đã góp phần vào việc khắc phục được một bước những mâu thuẫn, chồng chéo của hệ thống pháp luật về sở hữu, nghĩa vụ và hợp đồng, góp phần bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật tư nói riêng.
Bên cạnh các mặt đạt được, Bộ luật Dân sự năm 1995 đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, nổi bật là các vấn đề sau đây:
Thứ nhất, một trong những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền, đặc biệt sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành là Nhà nước phải có cơ chế pháp lý đế công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân về dân sự. Tuy nhiên, một số quy định của Bộ luật Dân sự hiện hành chưa đáp ứng được yêu cầu này;
Thứ hai, Bộ luật Dân sự chưa thể hiện được trọn vẹn vai trò là luật chung của hệ thống luật tư. Trong mối quan hệ với các luật khác thuộc lĩnh vực dân sự thì về nguyên tắc Bộ luật Dân sự phải là Bộ luật nền, có vị trí, vai trò là luật chung, thực hiện được trọn vẹn ba chức năng là:
- Quy định những vấn đề cơ bản nhất, chung nhất có liên quan đến tất cả các lĩnh vực thuộc đời sống dân sự;
- Định hướng cho việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động mang tính chuyên ngành: và
- Khi các luật chuyên ngành không có quy định hoặc có quy định nhung không rõ ràng thì các quy định của Bộ luật Dân sự được áp dụng để điều chỉnh.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, Bộ luật Dân sự hiện hành chưa đáp ứng được yêu cầu này, thể hiện ở chỗ, nhiều vấn đề cần phải quy định chung thì lại được quy định quá cụ thể và ngược lại, nhiều vấn đề cần phải quy định cụ thể thì lại được quy định chung chung; nhiều quy định chồng chéo với các luật chuyên ngành. Vì vậy, trong điều kiện hiện nay, khi mà bên cạnh Bộ luật Dân sự, đã và đang tồn tại ngày càng nhiều các đạo luật điều chỉnh các lĩnh vực hoạt động đặc thù, như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Thương mại, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Sở hữu trí tuệ, Bộ luật Lao động… thì nhược điểm này lại càng thể hiện rõ. Kêt quả là, Bộ luật Dân sự và hệ thống văn bản pháp luật trong hệ thống luật tư chưa thể hiện được trọn vẹn các yêu cầu đối với hệ thống pháp luật của
Nhà nước pháp quyền, đó là: Tính ổn định, tính khái quát, tính hệ thống, tính dự báo và tính minh bạch; Thứ ba, cấu trúc của Bộ luật Dân sự có điểm chưa hợp lý về tính đồng bộ, tính hệ thống, tính logic giữa các phần và chế định của Bộ luật. Nhiều quy định được lặp lại giữa các phần và các chế định tạo ra những quy định không cần thiết; một số quy định không bảo đảm tính rõ ràng nên đã gây ra nhiều cách hiểu khác nhau. Những hạn chế, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực và hiệu quả của Bộ luật Dân sự nói riêng, pháp luật dân sự nói chung; chưa thực sự tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước cũng như cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền dân sự của người dân. Do đó, việc xây dựng Bộ luật Dân sự (sửa đổi) là rất cần thiết.
Ngày 24/11/2015, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa 13 đã thông qua Bộ luật Dân sự năm 2015. Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2017. Việc xây dựng Bộ luật Dân sự được thực hiện trên cơ sở cửa hàng triệt những quan điểm chỉ đạo sau đây:
Thứ nhất, thể chế hóa trọn vẹn và cụ thể hoá, tăng cường các biện pháp để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân trong các lĩnh vực của đời sống dân sự cũng như những tư tưởng, nguyên tắc cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa về sở hữu và quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng giữa các chủ thể thuộc mọi cách thức sở hữu và thành phần kinh tế đã được ghi nhận trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI và đặc biệt là trong Hiến pháp năm 2013.
Thứ hai, bảo đảm Bộ luật Dân sự thực sự phát huy được hai vai trò cơ bản là: 1. Tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền dân sự của các chủ thể. Đặc biệt, bảo vệ quyền, lợi ích của bên yếu thế, bên thiện chí trong quan hệ dân sự; hạn chế đến mức tối đa sự can thiệp của đơn vị công quyền vào việc xác lập, thay đổi, chấm dứt các quan hệ dân sự; 2. Bộ luật của quan hệ thị trường thông qua việc ghi nhận một cách nhất cửa hàng nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật dân sự.
Thứ ba, xây dựng Bộ luật Dân sự thành bộ luật nền, có vị trí, vai trò là luật chung của hệ thống pháp luật tư, có tính khái quát, tính dự báo và tính khả thi để một mặt, bảo đảm tính ổn định của Bộ luật, mặt khác, đáp ứng được kịp thời sự phát triển thường xuyên, liên tục của các quan hệ xã hội vốn rất năng động thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự.
Thứ tư, đảm bảo tính kế thừa và phát triển các quy định còn phù hợp với thực tiễn của pháp luật dân sự, cũng như các giá trị văn hóa, tập cửa hàng, truyền thống đạo đức tốt đẹp của Việt Nam; có sự cân nhắc kinh nghiệm xây dựng Bộ luật Dân sự của một số nước, nhất là các nước có truyền thống pháp luật tương đồng với Việt Nam.
Bộ luật Dân sự năm 2015 có 689 điều, được bố cục thành 6 phần, 27 chương với những nội dung cơ bản sau đây:
Phần thứ nhất “Quy định chung” (Điều 1 – Điều 157), quy định về phạm vi điều chỉnh, nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, áp dụng Bộ luật Dân sự, áp dụng tập cửa hàng, áp dụng tương tự pháp luật; xác lập, thực hiện và bảo vệ quyền dân sự; địa vị pháp lý của chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự; tài sản; giao dịch dân sự; uỷ quyền; thời hạn và thời hiệu.
Phần thứ hai “Quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản” (Điều 158 – Điều 273), quy định nguyên tắc căn cứ xác lập, thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản; bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản; giới hạn quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản; chiếm hữu; quyền sở hữu; quyền đối với bất động sản liền kề, quyền hưởng dụng, quyền bề mặt.
Phần thứ ba “Nghĩa vụ và hợp đồng” (Điều 274 – Điều 608), quy định về căn cứ phát sinh, thực hiện nghĩa vụ và trách nhiệm dân sự; biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ; giao kết, thực hiện và chấm dứt họp đồng; một số họp đồng thông dụng; hứa thưởng và thi có giải; thực hiện công việc không có ủy quyền; nghĩa vụ hoàn trả do chiếm hữu, sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật và trách nhiệm bôi thường tổn hại ngoài hợp đồng.
Phần thứ tư “Thừa kế” (Điều 609 – Điều 662), bao gồm quy định chung về thừa kế, thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật, thanh toán, phân chia di sản.
Phần thứ năm “Pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài” (Điều 663 – Điều 687), bao gồm quy định chung, pháp luật áp dụng đối với cá nhân, pháp nhân, quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân có yếu tố nước ngoài. Phần thứ sáu “Điều khoản thi hành” (Điều 688 và Điều 689), quy định về hiệu lực thi hành và điều khoản chuyển tiếp.
6. Dịch vụ tư vấn Luật LVN Group
Trên đây là thông tin về Lịch sử phát triển của pháp luật dân sự qua các thời kỳ mà Công ty Luật LVN Group gửi đến quý bạn đọc tham khảo. Nếu cần cung cấp thêm thông tin chi tiết quy định về dân sự, quý khách vui lòng truy cập trang web: https://lvngroup.vn để được trao đổi cụ thể.