Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 ra đời có nhiệm vụ bảo vệ thành quả của cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên trên thực tiễn, trong quá trình triển khai áp dụng các quy định pháp luật được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đã nảy sinh ra một số bất cập. Để đảm bảo Bộ luật Tố tụng thực hiện được tốt nhiệm vụ của mình thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đã được Quốc hội sửa đổi và thông qua vào ngày 30 tháng 6 năm 1990. Để nghiên cứu Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1990 có những điểm gì mới, hãy theo dõi nội dung trình bày dưới đây của LVN Group để được trả lời câu hỏi.
1. Nguyên nhân ra đời của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1990.
Trong quá trình áp dụng những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, nhận thấy Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988không có những quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng; hầu như các quyền hạn chủ yếu liên quan đến thủ tục điều tra, truy tố đều thuộc Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát; còn Điều tra viên chỉ thực hiện các biện pháp điều tra mang tính nghiệp vụ, Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ tố tụng theo ủy quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát. Về thực chất, Điều tra viên, Kiểm sát viên không quyết định được bất cứ điều gì về vụ án. Chính sự bất cập này dẫn đến vai trò của Điều tra viên và Kiểm sát viên không được phát huy hết trong quá trình điều tra.
Trên tinh thần lấy dân làm gốc, đồng thời đáp ứng yêu cầu bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lí kiên quyết và triệt để mọi hành vi phạm tội. Bộ luật tố tụng hình sự được Quốc hội thông qua ngày 29 tháng 6 năm 1988 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều luật tại kì họp thứ bảy Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII và thông qua vào ngày 30/6/1990.
2. Những điểm mới của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1990.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều lần thứ nhất. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1990 đã được bổ sung thêm ba điều mới cụ thể là:
– Điều 42a quy định về người bảo vệ quyền lợi của đương sự:
“1. Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác được đơn vị điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án chấp nhận, bảo vệ quyền lợi cho mình.
2. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.
3. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có quyền gửi tới chứng cứ, đề đạt yêu cầu; được đọc hồ sơ vụ án, ghi chép những điều cần thiết sau khi kết thúc điều tra; tham gia phiên tòa; khiếu nại các quyết định của đơn vị tiến hành tố tụng. Người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo hướng dẫn của Bộ luật này.
Đối với đương sự là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, thì người bảo vệ quyền lợi của họ có quyền có mặt khi đơn vị tiến hành tố tụng lấy lời khai của người mà mình bảo vệ; có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định của Tòa án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mình bảo vệ.
4. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có nghĩa vụ sử dụng các biện pháp do pháp luật quy định để góp phần làm rõ sự thật của vụ án; giúp đương sự về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ.”
– Điều 168a quy định về thời hạn hoãn phiên tòa:
“Trong trường hợp phải hoãn phiên tòa theo hướng dẫn tại các Điều 30, 31, 33, 162, 164, 165, 166, 167 và 168 của Bộ luật này, thì thời hạn hoãn phiên tòa sơ thẩm không được quá ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa.”
– Điều 215a quy định về việc Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn:
“Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn.
Thời hạn tạm giam không được quá thời hạn quy định tại Điều 215 của Bộ luật này.
Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Tòa án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa.”
Mặt khác, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1990 đã sửa đổi, bổ sung 35 điều trong tổng số 286 điều luật của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988. Với những sửa đổi lần này, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1990 đã quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị tiến hành tố tụng, đề cao vai trò của các tổ chức xã hội và công dân trong tố tụng hình sự, kết hợp sức mạnh của pháp chế xã hội chủ nghĩa với sức mạnh của quần chúng nhân dân trong đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Từ đó giúp cho nhiệm vụ của Bộ luật Tố tụng hình sự được đảm bảo thực hiện tốt, giúp cho quá trình điều tra được tiến hành một cách toàn diện, nhanh chóng từ sự phối hợp của nhiều đơn vị tố tụng và người dân. Từ đó bảo đảm kịp thời quyền lợi hợp pháp của người dân và bảo vệ được trật tự an toàn xã hội.
Trên đây là toàn bộ nội dung nội dung trình bày giới thiệu về Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1990. Nội dung nội dung trình bày có đề cập đến nguyên nhân ra đời của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1990 và những điểm mới được sửa đổi, bổ sung của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1990 so với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988. Nếu trong quá trình nghiên cứu, quý bạn đọc còn có vấn đề cần được trả lời hay có quan tâm đến các dịch vụ tư vấn do LVN Group gửi tới, vui lòng truy cập địa chỉ trang web sau đây: https://lvngroup.vn/ để được tư vấn trả lời câu hỏi một cách chi tiết.