Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1980 - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1980

Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1980

Bài viết dưới đây đề cập đến bộ máy nhà nước Việt nam theo Hiến pháp 1980. Hãy cùng LVN Group theo dõi nội dung trình bày dưới đây !.

Bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1980

Bộ máy nhà nước là gì?

Để thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, bộ máy nhà nước cần được tổ chức chặt chẽ, khoa học. Bộ máy nhà nước là hệ thống các đơn vị nhà nước từ Trung ương đến địa phương, được tổ chức theo những nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế đồng bộ để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.

Bộ máy nhà nước Việt Nam giai đoạn Hiến pháp năm 1980

Sau Chiến thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước ta bước sang một trang sử mới. Khi này, hai miền Nam, Bắc đã hoàn toàn thống nhất, điều đó tạo ra cơ sở cần thiết để xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Có thể nói, vị trí lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được khẳng định vững chắc và tinh thần lạc quan, phấn khởi về con đường đi lên CNXH của đất nước đang dâng cao hơn bao giờ hết. về quan hệ quốc tế, trong giai đoạn này mối quan hệ hữu nghị, anh-em giữa Việt Nam và các nước trong Khối Xã hội Chủ nghĩa hở nên gắn bó chặt chẽ hơn bao giờ hết. Xu hướng áp dụng mô hình phát triển chung cả về chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội trở nên phổ biến giữa các nước Xã hội Chủ nghĩa mà đứng đầu là Liên bang Sô-viết trước đây. Tuy nhiên, cơ sở vật chất, hạ tầng của đất nước lại bị tàn phá nặng nề sau gần 30 năm chiến tranh. Điều này đặt ra những thách thức vô cùng lớn cho công cuộc xây dựng đất nước, đi lên CNXH.

Trong hoàn cảnh lịch sử như vậy, Hiến pháp năm 1980 đã thiết lập một bộ máy nhà nước với đặc điểm bao trùm là tính chất Xã hội Chủ nghĩa hết sức đậm nét, có thể nói là đậm nét nhất trong số các bản hiến pháp của Việt Nam. Điều này được thể hiện qua ba đặc điểm cụ thể sau:

Thứ nhất, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được khẳng định và quy định một cách mạnh mẽ. Trong Hiến pháp năm 1980, vai trò lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đề cập một cách nổi bật trong Lời nói đầu như nhân tố và động lực chủ chốt làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Bên cạnh đó, lần đầu tiên vai trò lãnh đạo của Đảng đã được quy định trong một điều riêng của hiến pháp, Điều 4, với nội dung:

“Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác – Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội; là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Đảng tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam. Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp.”

Có thể nói, quy định của Điều 4 đã đem lại sự bảo đảm hiến định vững chắc nhất cho vị trí, vai trò lãnh đạo tuyệt đối và duy nhất của Đảng đối với toàn hệ thống chính trị mà trước tiên là đối với bộ máy nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Các bản hiến pháp sau này đều kế thừa Điều 4 của Hiến pháp năm 1980 với những điều chỉnh phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của từng thời kì.

Thứ hai, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã được thiết kế hoàn toàn theo mô hình bộ máy nhà nước Xã hội Chủ nghĩa. Ở vị trí cao nhất của bộ máy nhà nước là Quốc hội, đơn vị quyền lực nhà nước cao nhất do nhân dân cả nước bầu ra. Các đơn vị và chức vụ khác ở trung ương như Hội đồng nhà nước, Hội đồng bộ trưởng, Chánh án Tòa án nhân dân tối, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đều là đại biểu Quốc hội, do Quốc hội bầu ra, có cúng nhiệm kì với Quốc hội và chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội.1 Với mô hình này, toàn bộ bộ máy nhà nước Việt Nam ở trung ương đều xuất phát từ Quốc hội – đơn vị uỷ quyền cao nhất của nhân dân. Khi Quốc hội hết nhiệm kì thì các đơn vị khác ở trung ương cũng hết nhiệm kì; khi Quốc hội bắt đầu nhiệm kì mới thì Quốc hội cũng bầu ra các đơn vị nhà nước khác ở trung ương với nhiệm kì mới. Các bộ máy nhà nước không theo mô hình Xã hội Chủ nghĩa không có đặc điểm này

Thứ ba, nguyên tắc tập thể lãnh đạo được áp dụng phổ biến trong tổ chức và hoạt động của các đơn vị nhà nước. Theo Hiến pháp năm 1980, Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là Hội đồng nhà nước, một đơn vị tập thể do Quốc hội bầu ra, đồng thời là đơn vị thường vụ của Quốc hội (Điều 99, 101, 108 Hiến pháp năm 1980; Điều 2 Luật tổ chức Hội đồng bộ trưởng năm 1981; Khoản 3 Điều 5 Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 1981; Điều 3, 42 Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1981. Lưu ý rằng, tuy Điều 2 Luật tổ chức Hội đồng bộ trưởng năm 1981 quy định Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng là đại biểu Quốc hội còn các thành viên khác của Hội đồng bộ trưởng chủ yếu chọn trong số các đại biểu Quốc hội, song trên thực tiễn các thành viên của Hội đồng bộ trưởng thường là đại biểu Quốc hội và Điều 98 Hiến pháp năm 1980). Chính phủ được gọi là Hội đồng bộ trưởng, với chế độ công tác tập thể đóng vai trò chủ yếu (Điều 104 Hiến pháp năm 1980; Chương II và Điêu 25 Luật tổ chức Hội đồng bộ trưởng năm 1981); vai trò cá nhân của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng ít nổi bật so với Thủ tướng trong các hiến pháp sau này.

 

Trên đây LVN Group đã đề cập đến bộ máy nhà nước Việt nam theo Hiến pháp 1980. Trong quá trình nghiên cứu nếu có vấn đề câu hỏi xin vui lòng liên hệ website của Công ty Luật LVN Group để được trả lời.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com