Các chủ thể tham gia vào quá trình phòng chống tội phạm là ai?

Xã hội càng phát triển, các vấn đề của xã hội lại càng phát sinh. Trong đó, tội phạm luôn là một vấn đề nhức nhối trong xã hội, đòi hỏi Nhà nước phải chỉ đạo, thành lập ra Cơ quan phòng chống tội phạm để đảm trật tự an toàn xã hội. Vậy, đâu là Chủ thể tham gia vào quá trình phòng chống tội phạm? Hãy cùng Công ty Luật LVN Group nghiên cứu trong nội dung trình bày này !!

Các chủ thể tham gia vào quá trình phòng chống tội phạm là ai?

1. Phân biệt chống tội phạm với phòng ngừa tội phạm

Hoạt động chống tội phạm bao gồm: Phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm và thi hành án hình sự. Đó là những hoạt động có đối tượng là tội phạm đã xảy ra. Trái lại, phòng ngừa tội phạm là các hoạt động nhằm không để cho tội phạm xảy ra. Hoạt động chống hay đấu tranh chống tội phạm và hoạt động phòng ngừa tội phạm là hai hoạt động khác nhau. Tuy nhiên, hai loại hoạt động này không phải độc lập hoàn toàn với nhau mà có mối quan hệ nhất định. Căn cứ:

  • -hống tội phạm hay đấu tranh chống tội phạm là hoạt động trấn áp tội phạm cụ thể đã xảy ra. Hoạt động này không chỉ ngăn chặn không cho chủ thể tiếp tục phạm tội mà còn có giá trị răn đe, giáo dục chung và qua đó tác động nhất định đến nguyên nhân của tội phạm nên cũng có giá trị phòng ngừa tội phạm. Ở khía cạnh này có thể coi chống tội phạm là hoạt động đặc biệt của phòng ngừa tội phạm. Chống tội phạm được thực hiện cũng có mục đích là phòng ngừa tội phạm vì cũng hướng tới môi trường và hướng tới con người theo hướng tích cực. Chống tội phạm để tạo cơ sở cho môi trường pháp lý hình sự nghiêm minh và để giáo dục ý tức tuân thủ pháp luật hình sự của mọi người. Đó là hai điều kiện cần thiết góp phần ngăn ngừa phát sinh nguyên nhân của tội phạm.
  • Chống tội phạm và phòng ngừa tội phạm là hai loại hoạt động có nội dung riêng. Tuy có quan hệ với nhau và có cùng mục đích như nêu trên nhưng hai loại hoạt động này không đồng nhất với nhau. Nếu đồng nhất hai hoạt động này sẽ dễ dẫn đến tình trạng bó hẹp phạm vi các biện pháp phòng ngừa cũng như tuyệt đối hoá biện pháp xử lý hình sự. Trong khi đó cần phải coi chống tội phạm chỉ là một trong số rất nhiều biện pháp thuộc hệ thống các biện pháp phòng ngừa tội phạm càn thực hiện. Tuy nhiên, chống tội phạm vẫn có tính độc lập tương đối, có nội dung, đặc điểm và yêu cầu riêng. Kết quả của chống tội phạm có hiệu quả là một trong các yếu tố góp phần phòng ngừa tội phạm.
Chống tội phạm vừa là bộ phận không thể thiếu của phòng ngừa tội phạm nhưng đồng thời cũng là mặt khác của phòng ngừa tội phạm. Phòng tội phạm và chống tội phạm là hai mặt không tách rời của thể thống nhất. Chống tội phạm tuy có vai trò cần thiết trong phòng ngừa tội phạm nhưng vai trò này chỉ có ý nghĩa khi đặt trong tổng thể các biện pháp phòng ngừa tội phạm nói chung. Chỉ trong tổng thể các biện pháp phòng ngừa tội phạm thì chống tội phạm mới có thể góp phần phòng ngừa tội phạm và được xem là một loại biện pháp phòng ngừa đặc biệt.
Tóm lại, phòng chống tội phạm và phòng ngừa tội phạm tuy là hai hoạt động có tính độc lập tương đối nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Do vậy, chúng ta có thể nói ghép hai hoạt động với nhau là phòng, chống tội phạm.

2. Các chủ thể tham gia vào quá trình phòng chống tội phạm

Cơ quan Công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân và các đơn vị hữu quan khác.

Đây là nhóm các đơn vị có thẩm quyền tiến hành tố tụng bao gồm các đơn vị tiến hành tố tụng (Điều 34 BLTTHS) và các đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 35 BLTTHS).

Các đơn vị này có trách nhiệm (nghĩa vụ và quyền) thực hiện các hoạt động chống tội phạm (điều tra, truy tố và xét xử tội phạm). Để thực hiện trách nhiệm đấu tranh chống tội phạm đòi hỏi các đơn vị này phải “... thực hiện trọn vẹn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình...” theo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Qua hoạt động chống tội phạm các đơn vị này có thể phát hiện các “kẽ hở” là nguyên nhân của tội phạm. Do vậy, điều luật yêu cầu các đơn vị chống tội phạm phải “... hướng dẫn, giúp đỡ các đơn vị khác của Nhà nước, tổ chức, cá nhân phòng ngừa tội phạm)…”.

Các đơn vị chống tội phạm đồng thời cũng là đơn vị phòng ngừa tội phạm nhưng cần thiết hơn các đơn vị này phải góp phần xây dựng ý thức và cách thức phòng ngừa tội phạm cho các đơn vị nhà nước khác cũng như cho các tổ chức và mọi cá nhân và nguyên nhân của tội phạm và tội phạm không bị giới hạn ở một địa chỉ cụ thể nào.

Cùng với việc hướng dẫn, tạo điều kiện cho các chủ thể khác trong việc phòng ngừa tội phạm, các đơn vị chống tội phạm cũng cần “... hướng dẫn, giúp đỡ các đơn vị khác của Nhà nước, tổ chức, cá nhân… đấu tranh chống tội phạm, ...” qua việc phát hiện tội phạm hoặc hợp tác với các đơn vị chống tội phạm trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử.

Trách nhiệm khác của các đơn vị chống tội phạm cũng không kém phần cần thiết để đảm bảo hiệu quả của xét xử là “... hướng dẫn, giúp đỡ các đơn vị khác của Nhà nước, tổ chức, cá nhân … giám sát và giáo dục người phạm tội tại cộng đồng”.

Các đơn vị, tổ chức

Các đơn vị này có “... nhiệm vụ giáo dục những người thuộc quyền quản lý của mình ..; kịp thời có biện pháp loại trừ nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm trong đơn vị, tổ chức của mình”. 

Theo quy định, các đơn vị này thực hiện trách nhiệm phòng ngừa tội phạm qua hai hoạt động cụ thể. Đó là:

– Giáo dục mọi người trong đơn vị ý thức tự phòng ngừa và ý thức tuân thủ pháp luật để tránh trở thành nạn nhân của tội phạm cũng như tránh trở thành người phạm tội.

– Thực hiện các biện pháp loại trừ nguyên nhân có thể làm phát sinh tội phạm trong đơn vị. Những nguyên nhân này có thể được đơn vị tự phát hiện hoặc được các đơn vị chống tội phạm phát hiện và kiến nghị với đơn vị.

Đây có thể được coi là các “kẽ hở” trong quản lý và các “kẽ hở” này cần được các đơn vị ưu tiên và tập trung mọi cố gắng để xóa bỏ vì hiện nay, các đơn vị thường chỉ chú trọng công tác giáo dục.

Chỉ khi các đơn vị kết hợp đồng thời hai hoạt động được điều luật xác định như được nêu trên thì các đơn vị mới hoàn thành được trách nhiệm phòng ngừa tội phạm. Ngoài trách nhiệm phòng ngừa tội phạm, nhóm chủ thể thứ hai này còn có trách nhiệm tham gia chống tội phạm

Mọi công dân

Trách nhiệm phòng ngừa tội phạm của mỗi công dân thể hiện ở việc chủ động có các biện pháp ngăn ngừa tội phạm xảy ra đối với mình hoặc tránh vô tình trở thành nạn nhân của tội phạm.

Cùng với trách nhiệm này, mỗi công dân cũng có trách nhiệm tham gia chống tội phạm với tư cách là người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc với tư cách là người làm chứng (Điều 55 BLTTHS).

Bạn đọc có thể cân nhắc thêm nội dung trình bày: Tội phạm xã hội học là gì?

3. Giải đáp có liên quan

Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động phòng ngừa tội phạm

  • Nguyên tắc pháp chế Xã hội chủ nghĩa.
  • Nguyên tắc dân chủ xã hội.
  • Nguyên tắc nhân đạo.
  • Nguyên tắc đảm bảo sự phối hợp đồng bộ hoạt động phòng ngừa tội phạm.

Không phải Mọi trường hợp chuẩn bị phạm tội hiếp dâm đểu phải chịu trách nhiệm hình sự?

Căn cứ K3 Đ8 Bộ luật Hình sự Việt Nam về tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt biệt nghiêm trọng và căn cứ vào K1 Đ17 Bộ luật Hình sự Việt Nam về trách nhiệm hình sự đối với người chuẩn bị phạm tội thì: Nếu người chuẩn bị phạm tội hiếp dâm thuộc K1 Đ111 BKHS Việt Nam thì không phải chịu trách nhiệm hình sự vì đây là tội nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình phạt là 7 năm tù.

Các chủ thể chính của phòng chống tội phạm là ai?

Các chủ thể chính của hoạt động này là các đơn vị chuyên trách trong công tác bảo vệ pháp luật và phòng, chống tội phạm cụ thể là Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, Thanh tra, đơn vị Thi hành án hình sự và một số đơn vị khác (Kiểm lâm, Hải quan, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển…)

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com