Các nguyên tắc của bộ luật tố tụng hình sự - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Các nguyên tắc của bộ luật tố tụng hình sự

Các nguyên tắc của bộ luật tố tụng hình sự

Pháp luật Tố tụng hình sự không chỉ chịu sự điều chỉnh bởi các nguyên tắc chung của pháp luật mà còn bị chi phối bởi các nguyên tắc riêng của một ngành luật độc lập. Vậy, các nguyên tắc cơ bản được quy định trong bộ luật tố tụng hình sự là những nguyên tắc nào? Để trả lời vấn đề này, Luật LVN Group xin gửi tới quý bạn đọc nội dung trình bày: “Các nguyên tắc cơ bản được quy định trong Luật tố tụng hình sự”.

1. Khái niệm nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự

Trong lĩnh vực tố tụng hình sự các nguyên tắc cơ bản một mặt phản ánh những quy luật đòi hỏi khách quan của quá trình giải quyết vụ án đồng thời một mặt cũng thể hiện thái độ chủ quan, nhận thức của nhà nước đối với việc đấu tranh xử lý tội phạm. Nói cách khác các nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự là kết quả của nhận thức chủ quan đối với quy luật khách quan trong việc giải quyết vụ án được pháp luật hóa làm định hướng cho xây dựng và thực thi pháp luật tố tụng hình sự.
Nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự là những phương châm, định hướng cần thiết chi phối toàn bộ hay một số giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự trong quá trình xây dựng thực thi pháp luật tố tụng hình sự nhằm giải quyết vụ án khách quan công bằng, bảo đảm và tôn trọng quyền con người

2. Nội dung các nguyên tắc cơ bản được quy định trong Luật tố tụng hình sự

2.1. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự

Nguyên tắc này được quy định tại Điều 7 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Nguyên tắc này được xây dựng trên cơ sở Điều 8 Hiến pháp năm 2013 và được cửa hàng triệt trong quá trình lập pháp và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự, nó có ý nghĩa bảo đảm cho việc tiến hành giải quyết vụ án nhanh chóng, chính xác có hiệu quả đồng thời bảo đảm quyền con người và lợi ích hợp pháp của công dân. Nguyên tắc này có những nội dung chính như sau:
– Xây dựng hệ thống pháp luật tố tụng hình sự trọn vẹn, toàn diện, phù hợp với thực tiễn, điều kiện của đất nước ở từng giai đoạn.
– Tự giác thực thi nghiêm chỉnh pháp luật tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Nhiệm vụ tuân thủ pháp luật tố tụng hình sự trước hết thuộc về đơn vị, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng do mọi hoạt động của các chủ thể này đều uỷ quyền cho nhà nước và có ảnh hưởng lớn có tính quyết định tới việc giải quyết vụ án cũng như ảnh hưởng đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, pháp nhân và các chủ thể khác tham gia tố tụng hình sự.
– Nhấn mạnh đến giới hạn quy định pháp luật tố tụng hình sự trong quá trình tiến hành tố tụng giải quyết vụ án. Trong suốt quá trình giải quyết vụ án kể từ khi tiếp nhận nguồn tin về tội phạm đến khi kết thúc vụ án mọi hoạt động tố tụng đều phải tuân thủ, không được thực hiện vượt quá giới hạn, quy định của pháp luật.

2.2. Các nguyên tắc trực tiếp bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự

2.2.1. Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân

Mọi người đều có quyền được bảo vệ bằng các Tòa án quốc gia có thẩm quyền với phương tiện pháp lý có hiệu lực chống lại những hành vi vi phạm các quyền căn bản đã được Hiến pháp và pháp luật công nhận.
Căn cứ hóa tư tưởng của Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền công dân, đồng thời là định hướng cho việc tôn trọng, bảo đảm quyền con người của các chủ thể tố tụng hình sự trong quá trình giải quyết vụ án, nhất là của đơn vị, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, Điều 8 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã ghi nhận và quy định nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân.
 
Việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân là một trong những nhiệm vụ của pháp luật nói chung cũng như pháp luật tố tụng hình sự nói riêng. Luật tố tụng hình sự là công cụ sắc bén của Nhà nước trong công cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, thể hiện rõ quyền lực nhà nước. Trong quá trình tố tụng, những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền tiến hành những hoạt động tố tụng và ra những quyết định tố tụng có tính bắt buộc đối với đơn vị, tổ chức và mọi cá nhân có liên quan. Trong các hoạt động và quyết định đó, có những hoạt động và quyết định “động chạm” đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân đã được Hiến pháp quy định. Đó là quyền năng của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng để các chủ thể này thực hiện nhiệm vụ của mình. Điều đó đòi hỏi phải xác định trách nhiệm của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc tôn trọng quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân. Theo đó, khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, đơn vị, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết.

2.2.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật

Bình đẳng trước pháp luật là những nguyên lý của pháp luật được thể hiện qua các quy định cụ thể, thiết lập về quyền được đối xử một cách công bằng giữa mọi công dân trước pháp luật, theo đó, mọi công dân nam, nữ thuộc các dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội khác nhau trong một quốc gia đều không bị phân biệt đối xử trong việc hưởng quyền, nghĩa vụ và chịu trách nhiệm pháp lý theo hướng dẫn của pháp luật. Vấn đề này được nêu rõ trong Điều 7 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, theo đó: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng, không kỳ thị. Mọi người đều được bảo vệ chống lại mọi kỳ thị hay xúi giục kỳ thị trái với Tuyên Ngôn này”.
Điều 16 Hiến pháp năm 2013 và Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng đã ghi nhận và quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật xác định vị trí của mọi người là như nhau trong mọi lĩnh vực hoạt động nhà nước và xã hội cũng như khi tham gia các hoạt động tố tụng hình sự, không có sự phân biệt.

2.2.3. Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể

Bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự được quy định trong tất cả các bản Hiến pháp của nước ta và ghi nhận trong nhiều văn kiện quốc tế như: Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 (UDHR); Công ước quốc tế về’ các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR); Công ước chống tra tấn và các cách thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người năm 1984 (CAT)… Đáp ứng đòi hỏi: “phải có các biện pháp hữu hiệu để phòng chống tra tấn ở bất cứ lãnh thổ nào dưới thẩm quyền pháp lý của mình” và “tra tấn được coi là một tội phạm hình sự”, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có những quy định phù hợp. Theo đó, Điều 373 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Người nào trong hoạt động tố tụng, thi hành án hoặc thi hành các biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng… mà dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm của người khác dưới bất kỳ cách thức nào thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

2.2.4. Nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân; danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân

Quyền sống, quyền được an toàn về sức khỏe, quyền được tôn trọng về danh dự, nhân phẩm, quyền về tài sản của cá nhân là những quyền con người cơ bản được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế về quyền con người và Hiến pháp năm 2013. Tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân; danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân là đối tượng bảo vệ không chỉ của pháp luật hình sự mà còn là đối tượng bảo vệ của pháp luật tố tụng hình sự. Khác với Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ngoài việc quy định về bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân còn quy định về bảo hộ danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân. Khi đã là chủ thể của trách nhiệm hình sự thì trong hoạt động tố tụng hình sự, các pháp nhân thương mại cũng có khả năng trở thành nạn nhân của những hành vi trái pháp luật xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của họ.

2.2.5. Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân

Nguyên tắc bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của cá nhân được quy định tại Điều 12 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 bao gồm các nội dung chủ yếu sau:
– Chỗ ở, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín, dữ liệu điện tử và các cách thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân là các quyền con người được pháp luật tôn trọng, bảo vệ.
– Trong quá trình giải quyết vụ án đơn vị có thẩm quyền tiến hành tố tụng được quyền thực hiện các biện pháp cưỡng chế, biện pháp ngăn chặn điều tra như khám người, chỗ ở,….Tuy nhiên khi áp dụng nguyên tắc này đơn vị có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tuân thủ các nguyên tắc được quy định trong Luật tố tụng.
– Mọi hành vi xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở của công dân hoặc các hành vi vi phạm về bí mật an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của công dân đều bị xử lý theo hướng dẫn của pháp luật.

2.2.6. Nguyên tắc suy đoán vô tội

Đây là một nguyên tắc thuộc nhóm những nguyên tắc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân. Đây là nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi không có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trong bộ luật cũ
– Nội dung của nguyên tắc
  • Không ai bị coi là có tội khi không có bản án kết tội của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Nguyên tắc này đòi hỏi bất cứ tội phạm nào cũng phải được chứng minh theo trình tự, thủ do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Nếu có căn cứ để kết tội thì Tòa án sẽ ra bản án kết tội. Một người chỉ có thể bị coi là có tội khi bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, tức là bản án của Tòa án đã tuyên đối với người này là có tội và bản án đó không bị kháng cáo, kháng nghị, không có căn cứ để giám đốc thẩm hay tái thẩm
  • Người bị tình nghi, bị can, bị cáo không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình, nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc trách nhiệm của đơn vị tiến hành tố tụng
  • Mọi nghi ngờ trong quá trình chứng minh tội phạm của người bị tình nghi, bị can, bị cáo nếu không được loại trừ theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định thì phải được giải thích có lợi cho người bị tình nghi, bị can, bị cáo
Nguyên tắc suy đoán vô tội đòi hỏi sự buộc tội phải dựa trên những chứng cứ xác thực không còn nghi ngờ. Mọi nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo đều phải được kiểm tra, chứng minh, làm rõ. Nếu không chứng minh làm rõ được sự nghi ngờ thì sự nghi ngờ đối với người bị bắt giữ, bị can, bị cáo phải được giải thích theo hướng có lợi cho họ
– Ý nghĩa của nguyên tắc
  • Nguyên tắc này đáp ứng yêu cầu chứng minh
  • Bảo vệ quyền của người bị tình nghi, bị can, bị cáo: Bảo vệ cá nhân người bị buộc tội chống lại sự xâm hại quyền con người
  • Suy đoán vô tội còn đem đến sự cân bằng trong hoạt động tố tụng hình sự giữa một bên là nhà nước với bộ máy điều tra, truy tố, xét xử hùng mạnh được hậu thuẫn bằng quyền lực nhà nước với một bên yếu thế hơn là người bị tình nghi, bị can, bị cáo. Vì vậy không chỉ là quyền lực của người bị buộc tội, thể hiện giá trị của văn minh nhân loại trong việc bảo đảm quyền con người, suy đoán vô tội còn phù hợp với quy luật của nhận thức trong tố tụng hình sự

2.2.7. Nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm

Trên cơ sở quy định của Hiến pháp năm 2013, đồng thời kế thừa và phát huy mặt tích cực của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 được quy định tại khoản 4 Điều 107, không được khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp “Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật”, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm. Quy định này phù hợp với Công ước quốc tế về’ các quyền dân sự và chính trị năm 1966: “Không ai bị đưa ra xét xử hoặc bị trừng phạt lần thứ hai về cùng một tội phạm mà người đó đã bị kết án hoặc đã được tuyên trắng án phù hợp với pháp luật và thủ tục tố tụng hình sự của mỗi nước”.

2.2.8. Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án

Nội luật hóa Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR) mà Việt Nam là thành viên, theo đó, trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người đều có quyền được hưởng một cách trọn vẹn và hoàn toàn bình đẳng về việc không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận là mình có tội. Kế thừa Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam qua các thời kỳ cũng như đặc điểm và truyền thống lập pháp nước ta, về cơ bản vẫn là mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn, mô hình tố tụng hình sự không thừa nhận tư tố, thỏa thuận nhận tội như ở một số mô hình tố tụng hình sự khác. Do đó, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các đơn vị công quyền, đơn vị, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng chứ không thuộc về người bị buộc tội.

2.2.9. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự

Quyền bào chữa luôn được ghi nhận trong các bản Hiến pháp của nước ta và được cụ thể hóa trong các văn bản luật. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 quy định tại Điều 12 nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo”; nguyên tắc này được quy định tại Điều 11 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 với tên gọi “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Vì vậy, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã mở rộng diện người được hưởng quyền bào chữa là người bị tạm giữ. Tuy nhiên, việc mở rộng ấy vẫn chưa bao quát hết được những người bị buộc tội cần phải có người bào chữa, như người bị tình nghi, bị bắt, người bị tố giác..; cũng như điều luật chưa xác định cụ thể cách thức đơn vị tiến hành tố tụng giúp người buộc tội tiếp cận với người bào chữa đề’ giúp đỡ họ.
Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền bào chữa, đó là: “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”, và đã xác lập tại Điều 16 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện trọn vẹn quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo hướng dẫn của Bộ luật này”.

2.3. Các nguyên tắc quy định trách nhiệm của các đơn vị có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc giải quyết vụ án hình sự

2.3.1. Nguyên tắc trách nhiệm của đơn vị, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng

Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, Điều 17 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định nguyên tắc trách nhiệm của đơn vị, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Cơ quan và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là những chủ thể được Nhà nước giao thực hiện các hoạt động tố tụng trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Ngoài các chủ thể này ra thì không một đơn vị nào khác được phép sử dụng quyền lực nhà nước để khởi tố, điều tra… Mặt khác, mọi vi phạm pháp luật của đơn vị, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đều có thể dẫn đến việc oan, sai, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đơn vị, tổ chức, cá nhân, giảm lòng tin của người dân vào sự công minh của pháp luật.

2.3.2. Nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự

Trong quá trình tiến hành tố tụng, để bảo đảm phát hiện nhanh chóng và kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội, Điều 18 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định rõ trách nhiệm khởi tố và xử lý vụ án hình sự.

2.3.3. Nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra

Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn hoạt động điều tra vụ án, yêu cầu cải cách tư pháp và yêu cầu bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra tại Điều 19. Nhiệm vụ trong giai đoạn điều tra phá nặng nề; ở giai đoạn này, đơn vị có thẩm quyền điều tra phải tiến hành điều tra làm rõ tất cả mọi tình tiết liên quan đến vụ án làm cơ sở cho việc truy tố và xét xử vụ án, đồng thời phải xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội và kiến nghị các biện pháp khắc phục, phòng ngừa đối với cá nhân, đơn vị, tổ chức hữu quan. Tuy nhiên, việc thực hiện các nhiệm vụ điều tra không thể tiến hành một cách tùy tiện, vượt quá khuôn khổ, phạm vi quy định của pháp luật, nhất là trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế của tố tụng hình sự. Vì vậy, việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra là đòi hỏi tất yếu, bảo đảm cho hoạt động điều tra khách quan, toàn diện, khắc phục được tình trạng lạm dụng, vi phạm gây ra hậu quả tiêu cực trong quá trình điều tra giải quyết vụ án.
Nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra là cơ sở, tạo điều kiện để hoạt động điều tra diễn ra được khách quan, toàn diện, không thiên vị, góp phần cần thiết để vụ án được giải quyết công bằng, đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Đồng thời, nguyên tắc này còn có ý nghĩa bảo đảm pháp chế, bảo đảm công lý, bảo vệ quyền con người; bảo đảm tổn hại do hành vi phạm tội gây ra được khôi phục

2.3.4. Nguyên tắc trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự

Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật là hai chức năng đặc trưng của Viện kiểm sát. Theo đó, Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Trên cơ sở quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp… Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”, Điều 20 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định cụ thể hơn trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự.

2.3.5. Nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người có thẩm quyền tiến hành, người tham gia tố tụng

Vô tư trong quá trình giải quyết vụ án hình sự là điều kiện cần thiết để có một thủ tục tố tụng công bằng, khách quan, là yếu tố nền tảng để củng cố niềm tin của những người tham gia tố tụng và xã hội đối với hoạt động của đơn vị và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, là yêu cầu không thể thiếu được của một Nhà nước pháp quyền.
Bảo đảm sự vô tư của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng được ghi nhận là một nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự được quy định tại Điều 21 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trên cơ sở quy định này, Bộ luật Tố tụng hình sự còn quy định những trường hợp phải thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, những trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng và những trường hợp phải thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật, người giám định, người định giá tài sản, người chứng kiến, người làm chứng…

2.4. Các nguyên tắc điều chỉnh cho hoạt động xét xử

2.4.1. Nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia

Nhà nước ta là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Để bảo đảm nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án, khoản 1 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”. Căn cứ hóa quy định này, Điều 22 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã ghi nhận nguyên tắc thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia.

2.4.2. Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật

Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong những nguyên tắc hiến định quy định tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 và được cụ thể hóa trong Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 với tư cách là nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự.
Độc lập xét xử được xuất hiện từ tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước thành quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp của Montesquieu. Ông cho rằng “không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không được tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp”, độc lập xét xử là một thuộc tính không thể thiếu trong bất kỳ quốc gia nào. Quyền tư pháp thực hiện sự phán quyết về những vấn đề’ mang tính tư pháp, thông thường và chủ yếu là do Tòa án thực hiện. Độc lập xét xử bao gồm các thành tố cơ bản sau: độc lập của quyền tư pháp, độc lập của thiết chế thực hiện quyền tư pháp, độc lập của những người thực hiện quyền lực tư pháp. Hay nói cách khác, độc lập của quyền tư pháp với các quyền lực nhà nước khác, độc lập của đơn vị Tòa án với các đơn vị quyền lực khác cũng như giữa các đơn vị Tòa án với nhau, độc lập của Thẩm phán. Tòa án được thiết lập để thực hiện quyền tư pháp, nên Tòa án phải độc lập với đơn vị lập pháp, đơn vị hành pháp, không bị giám sát, kiểm soát, lệ thuộc về mặt nhận định, tổ chức, nhân sự, kinh phí…

2.4.3. Nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể

Để bảo đảm cho việc xử lý vụ án được thận trọng, khách quan, chống độc đoán, Điều 24 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số”.

2.4.4. Nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai

Điều 25 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thiết lập mới nguyên tắc Tòa án xét xử kịp thời, công bằng, công khai như sau: “Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, bảo đảm công bằng. Tòa án xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa…”. Nguyên tắc này xuất phát từ quy định của Hiến pháp năm 2013, đó là: “Người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, công bằng, công khai. Trường hợp xét xử kín theo hướng dẫn của luật thì việc tuyên án phải được công khai”. Nguyên tắc Tòa án xét xử công khai còn được cụ thể hóa trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.

2.4.5. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm

Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo được Hiến pháp năm 2013 quy định tại khoản 5 Điều 103, đó là: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo”; được cụ thể hóa tại Điều 13 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và Điều 26 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Yêu cầu của nguyên tắc: các đơn vị tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc gửi tới chứng cứ chứng minh, và thực hiện các quyền và nghĩa khác do pháp luật quy định để làm rõ sự thật của vụ án; Tòa án phải có trách nhiệm tạo điều kiện cho các bên và người tham gia tố tụng thực hiện trọn vẹn quyền, nghĩa vụ của họ khi tranh tụng dân chủ trước phiên tòa.

2.4.6. Nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm

Kế thừa quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về nguyên tắc thực hiện chế độ hai cấp xét xử, trên cơ sở quy định tại khoản 6 Điều 103 Hiến pháp năm 2013, Điều 27 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định nguyên tắc chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm.
Nguyên tắc này cũ nguyên tắc hoạt động cơ bản của Tòa án tại hầu hết các nước trên ế giới, pháp luật các nước đều quy định đương sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm để xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm, trừ một số trường hợp ngoại lệ. Trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 cũng ghi nhận: “Bất cứ người nào bị kết án là phạm tội đều có quyền yêu cầu Tòa án cấp cao hơn xem xét lại bản án và hình phạt đối với mình theo hướng dẫn của pháp luật”(khoản 5 Điều 14).

2.4.7. Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án

Nguyên tắc bảo đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án được quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trong quá trình xét xử vụ án hình sự, tùy theo từng vụ án mà Tòa án ra bản án hoặc các quyết định tố tụng nhằm giải quyết vụ án. Bản án và quyết định của Tòa án khi đã có hiệu lực pháp luật phải được nghiêm chỉnh chấp hành. Nguyên tắc này có ý nghĩa cần thiết trong việc nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm.

2.4.8. Nguyên tắc tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự

Căn cứ hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, đơn vị có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải bảo đảm cho người tham gia tố tụng được sử dụng tiếng nói và chữ viết của dân tộc mình. Để việc tiến hành tố tụng có hiệu quả, tạo điều kiện cho người tham gia tố tụng góp phần vào việc xác định sự thật của vụ án cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự là một nguyên tắc cơ bản (Điều 29).

2.4.9. Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 tiếp tục quy định nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự tại Điều 30, là cơ sở pháp lý cho việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, bảo đảm giải quyết vụ án được nhanh chóng, kịp thời, đúng đắn và tiết kiệm thời gian, chi phí tố tụng…; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng.

2.5. Các nguyên tắc liên quan đến việc giải quyết hệ quả của việc vi phạm trong hoạt động tố tụng hình sự

2.5.1. Nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường của người bị tổn hại trong hoạt động tố tụng hình sự

Theo Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, khi một người qua một quyết định chung thẩm bị kết án về một tội hình sự và sau đó bản án bị hủy bỏ hoặc nếu người đó lại được tuyên là vô tội… thì người đã phải chịu hình phạt theo bản án đó, theo luật, có quyền yêu cầu được bồi thường… Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm chứng minh tội phạm. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các chủ thể này phải xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và trọn vẹn. Trong quá trình tố tụng, đơn vị, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh thực hiện những quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về những hành vi, quyết định của mình. Trong thực tiễn tố tụng, không loại trừ những trường hợp làm oan, sai ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng, cho nên cùng với việc quy định trách nhiệm của đơn vị, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cần phải quy định về quyền được bồi thường tổn hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người tham gia tố tụng trong các trường đó.
Nguyên tắc này hiện nay được quy định tại khoản 5 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 và Điều 31 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

2.5.2. Nguyên tắc bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự

Khoản 1 Điều 30 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với đơn vị, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của đơn vị, tổ chức, cá nhân”. Quyền khiếu nại của cá nhân, đơn vị, tổ chức và quyền tố cáo của cá nhân đối với hành vi vi phạm pháp luật của đơn vị, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hoặc của bất cứ cá nhân nào thuộc các đơn vị đó được cụ thể hóa tại Điều 32 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

2.5.3. Nguyên tắc kiểm tra, giám sát trong tố tụng hình sự

Để bảo đảm cho việc thực hiện Bộ luật Tố tụng hình sự có hiệu quả, tất cả các hoạt động tố tụng hình sự của các chủ thể đều phải được kiểm tra, giám sát. Việc giám sát của các đơn vị, tổ chức, đại biểu dân cử đối với hoạt động của đơn vị tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trước đây đã được đề’ cập trong Điều 8 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988. Đó là một trong những nội dung của nguyên tắc “Việc tham gia tố tụng hình sự của các tổ chức xã hội và công dân”. Nội dung này đã được tách ra thành nguyên tắc cơ bản và được bổ sung trọn vẹn, rõ ràng hơn trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 nhằm thực hiện nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp, theo tinh thần của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về’ “một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”: “Tăng cường sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, của các tổ chức xã hội và của nhân dân đối với công tác tư pháp”. Kế thừa những quy định trên, tại Điều 33 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, ngoài nội dung giám sát của đơn vị nhà nước, ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử, nguyên tắc này còn bổ sung nội dung kiểm tra của các đơn vị, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

3. Dịch vụ tư vấn Luật LVN Group

Trên đây là thông tin về Các nguyên tắc cơ bản được quy định trong Luật tố tụng hình sự mà Công ty Luật LVN Group gửi đến quý bạn đọc tham khảo. Nếu cần cung cấp thêm thông tin chi tiết quy định về tố tụng, quý khách vui lòng truy cập trang web: https://lvngroup.vn để được trao đổi cụ thể.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com