Pháp luật hình sự quy định có rất nhiều loại tội phạm khác nhau dựa trên cơ sở phân chia về quan hệ xã hội, yếu tố về lỗi… Nhìn chung các tội phạm đều được hợp thành bởi các yếu tố nhất định. Điều này có ý nghĩa trong việc xác định một người đã thực hiện hành vi được cho là tội phạm hay chưa, hay việc thực hiện hành vi đó phạm tội ở mức độ nào. Vậy các yếu tố cấu thành tội phạm là gì? Căn cứ để xác định các yếu tố cấu thành tội phạm là gì? Hãy cùng LVN Group nghiên cứu về vấn đề này trong nội dung trình bày dưới đây.
1. Tội phạm là gì?
Theo Điều 8 Bộ luật hình sự 2015, tội phạm được định nghĩa là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo hướng dẫn của Bộ luật Hình sự phải bị xử lý hình sự.
2. Các yếu tố cấu thành tội phạm
Theo đó, có 4 yếu tố cấu thành tội phạm, đó là: mặt khách quan của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm, và khách thể của tội phạm.
3. Căn cứ để xác định các yếu tố cấu thành tội phạm
3.1. Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện của con người ra bên ngoài thế giới khách quan dưới cách thức cụ thể nhằm đạt được mục đích và mong muốn của con người.
Theo đó, các dấu hiệu của mặt khách quan của tội phạm gồm các yếu tố:
– Hành vi nguy hiểm cho xã hội
– Hậu quả nguy hiểm cho xã hội,
– Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội.
– Mặt khác, còn có các dấu hiệu khác như: phương tiện, công cụ tội phạm, phương pháp thủ đoạn, thời gian, địa điểm, thực hiện phạm tội.
3.2. Mặt chủ quan của tội phạm
Mặt chủ quan của tội phạm là những diễn biến tâm lý bên trong của tội phạm bao gồm: lỗi, mục đích, và động cơ phạm tội.
Yếu tố lỗi
Theo quy định của Bộ luật hình sự 2015, Lỗi là thái độ tâm lý bên trong của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội của mình cũng như khả năng gây ra hậu quả từ hành vi đó. Bất cứ tội phạm cụ thể nào cũng phải là hành vi được thực hiện một cách có lỗi. Lỗi được chia thành bốn loại, cụ thể như sau:
– Lỗi cố ý trực tiếp: Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là gây nguy hại cho xã hội, thấy được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hành vi đó sẽ xảy ra.
– Lỗi cố ý gián tiếp: người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiềm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó, tuy không mong muốn những vẫn có ý thức để mặc nó xảy ra.
– Lỗi vô ý do quá tự tin: người phạm tội tuy thấy trước được hành vi của mình có thể gây nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
– Lỗi vô ý do cẩu thả: người phạm tội không thấy được hành vi của mình có thể gây ra nguy hại cho xã hội, mặc dù có thể thấy trước và có thể thấy hậu quả đó.
Động cơ phạm tội: Động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý gây thương tích.
Mục đích phạm tội: Gây ra những tổn hại sức khỏe có thể nhìn thấy được về vật chất, tinh thần cho nạn nhân.
3.3. Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được luật hình sự quy định là tội phạm, có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo hướng dẫn của luật hình sự
Trong đó, năng lực trách nhiệm hình sự là khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của người phạm tội. Tuổi chịu trách nhiệm hình sự: từ 14 tuổi đến 16 tuổi thì phải chịu trách nhiệm hình sự với những tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng, người từ 16 tuổi trở lên chịu trách nhiệm hình sự với mọi loại tội phạm.
3.4. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại ở mức độ đáng kể.
4. Giải đáp có liên quan
4.1. Có bao nhiêu loại tội phạm theo hướng dẫn pháp luật hiện hành?
Theo Điều 9 Bộ luật hình sự 2015, có 4 loại tội phạm tương ứng với 4 mức độ nguy hiểm khác nhau, bao gồm: tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
4.2. Ý nghĩa của việc xác định các yếu tố cấu thành tội phạm là gì?
Việc xác định các yếu tố cấu thành tội phạm có ba ý nghĩa cần thiết: định tội, định khung và định hình phạt. Trước hết, cấu thành tội phạm giúp làm rõ đặc điểm pháp lý của tội phạm, có ý nghĩa định tội khi tội phạm xảy ra và để phân biệt tội phạm này đối với tội phạm khác. Từ việc xác định được loại tội phạm, thì có tác dụng định khung hình phạt đối với tội phạm đó và từ đó xác định hình phạt cụ thể đối với người phạm tội.
4.3. Các căn cứ không khởi tố vụ án hình sự là gì?
Theo quy định tại Điều 157 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, các căn cứ không khởi tố vụ án hình sự bao gồm: không có sự việc phạm tội; hành vi không cấu thành tội phạm; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; tội phạm đã được đại xá; người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác; tội phạm chỉ khởi tố khi bị hại hoặc người uỷ quyền yêu cầu khởi tố mà bị hại hoặc người uỷ quyền của bị hại không yêu cầu khởi tố.
Trên đây là các nội dung liên quan đến Căn cứ để xác định các yếu tố cấu thành tội phạm là gì? Mong rằng nội dung trình bày sẽ gửi tới thêm cho quý bạn đọc những thông tin hữu ích về vấn đề này.