Cấu thành vật chất và cấu thành hình thức trong khoa học luật hình sự

Cấu thành tội phạm là là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính đặc trưng cho loại tội phạm cụ thể được quy định trong luật hình sự. Căn cứ vào cấu thành tội phạm được chia ra: Cấu thành tội phạm vật chất và cấu thành tội phạm cách thức. Bài viết dưới đây của LVN Group liên quan đến Cấu thành vật chất và cấu thành cách thức trong khoa học luật hình sự hi vọng đem đến nhiều thông tin chi tiết và cụ thể đến Quý bạn đọc.

Cấu thành vật chất và cấu thành cách thức trong khoa học luật hình sự

1. Các loại cấu thành tội phạm

Các cấu thành tội phạm của tất cả các tội phạm cụ thể đều là cách thức phản ánh trong luật hình sự nội dung của bốn yểu tố cấu thành tội phạm nhưng được xây dựng với những đặc điểm cấu trúc khác nhau.

Có cấu thành tội phạm chỉ mô tả hành vi khách quan có tính gây tổn hại cho xã hội là dấu hiệu phản ánh yểu tố mặt khách quan của tội phạm như cấu thành tội phạm tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (Điều 157 Bộ luật hình sự) nhưng cũng có cấu thành tội phạm mô tả cả hậu quả tổn hại như cấu thành tội phạm tội vô ý gây tổn hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 180 Bộ luật hình sự); có cấu thành tội phạm hoàn toàn không có dấu hiệu phản ánh nội dung của khách thể như cấu thành tội phạm tội che giấu tội phạm (Điều 389 Bộ luật hình sự) nhưng cũng có cấu thành tội phạm có dấu hiệu phản ánh toàn bộ hoặc một bộ phận của khách thể như cấu thành tội phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 Bộ luật hình sự). Bên cạnh những cấu thành tội phạm không có dấu hiệu mục đích phạm tội như

Dựa vào đặc điểm cấu trúc của các dấu hiệu thuộc mặt khách quan có thể chia cấu thành tội phạm thành cấu thành tội phạm vật chất và cấu thành tội phạm cách thức:

1.1 Cấu thành tội phạm vật chất

Cấu thành tội phạm vật chất là cấu thành tội phạm mà các dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm bao gồm: hành vi phạm tội, hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, trong đó:

– Hành vi phạm tội là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa; được quy định ở các điều luật cụ thể thuộc phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.

– Hậu quả do hành vi phạm tội gây ra là tổn hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản hoặc hậu quả phi vật chất. Căn cứ vào mức độ tổn hại do hành vi phạm tội gây ra, thì có thể chia hậu quả do hành vi phạm tội gây ra thành bốn mức sau: hậu quả ít nghiêm trọng; hậu quả nghiêm trọng; hậu quả rất nghiêm trọng; và hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, trong đó: Hậu quả ít nghiêm trọng là tổn hại do hành vi phạm tội gây ra ở mức không lớn cho xã hội. Hậu quả nghiêm trọng là tổn hại lớn cho xã hội về tính mạng, sức khoẻ, tài sản và tổn hại phi vật chất khác. Hậu quả rất nghiêm trọng là tổn hại rất lớn cho xã hội về tính mạng, sức khoẻ, tài sản và tổn hại phi vật chất khác. Hậu quả đặc biệt nghiêm trọng là tổn hại đặc biệt lớn cho xã hội về tính mạng, sức khoẻ, tài sản và tổn hại phi vật chất khác. Với tư cách là một yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm vật chất, thì chỉ những hành vi gây ra một trong các loại tổn hại sau đây mới bị coi là tội phạm: hậu quả nghiêm trọng; hậu quả rất nghiêm trọng; và hậu quả đặc biệt nghiêm trọng, hậu quả nghiêm trọng; hậu quả rất nghiêm trọng; và hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Còn hành vi không gây ra hậu quả ít nghiêm trọng chỉ bị coi là phạm tội khi đi kèm các dấu hiệu khác (chúng tôi sẽ trình bày ở cuối nội dung trình bày này). Nghiên cứu các tội phạm có cấu thành vật chất, thấy “hậu quả nghiêm trọng, hậu quả rất nghiêm trọng, hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”được thể hiện bởi nhiều dạng khác nhau. Có những tội dùng trực tiếp thuật ngữ gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng” như tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng; tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp; tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ…Và cũng có tội gây ra nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng được thể hiện dưới dạng các mức độ tổn hại cụ thể như: tính mạng, % sức khỏe bị tổn hại, giá trị tài sản bị hành vi phạm tội xâm phạm. Đó là các tội: giết người, cố ý gây thương tích, trộm cắp tài sản…

– Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm có cấu thành vật chất. Theo quy định của pháp luật, thì chỉ được coi là giữa hành vi khách quan và hậu quả có quan hệ nhân quả khi:

  • Hành vi trái pháp luật phải xảy ra trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội về mặt thời gian. Đây là căn cứ đầu tiên cần thiết cho việc kiểm tra sự tồn tại của quan hệ nhân quả và trên thực tiễn khi kiểm tra căn cứ này thì trong vụ án cụ thể, nếu không thoả mãn căn cứ thì không có khả năng tồn tại quan hệ nhân quả giữa giữa hành vi và hậu quả.
  • Hành vi trái pháp luật phải chứa đựng khả năng thực tiễn làm phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra phải là sự hiện thực hoá khả năng thực tiễn làm phát sinh hậu quả của chính hành vi trái pháp luật. Hành vi trực tiếp gây ra hậu quả và hậu quả chính là hệ quả trực tiếp của hành vi. Cũng cần lưu ý rằng, trong quan hệ nhân quả, hành vi trái pháp luật được coi là nguyên nhân, tuy giữ vai trò quyết định đối với sự phát sinh hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng hậu quả đó xảy ra được không và xảy ra thế nào còn phụ thuộc vào những “điều kiện” nhất định như khắc phục, cứu chữa kịp thời…
Tội phạm có cấu thành tội phạm vật chất được coi là hoàn thành từ thời gian có tổn hại xảy ra.

1.2 Cấu thành tội phạm cách thức

Cấu thành tội phạm cách thức là cấu thành tội phạm có duy nhất một yếu tố bắt buộc về mặt khách quan của tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội.

Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi gây tổn hại cho xã hội hoặc hành vi tạo ra khả năng gây ra các tổn hại cho các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Hành động phạm tội là làm một việc mà pháp luật hình sự cấm không được làm. Ví dụ: hành động giết người (Điều 93 Bộ luật hình sự); cướp tài sản (Điều 133 Bộ luật hình sự)…..Còn hành vi phạm tội được thực hiện dưới dạng không hành động là trường hợp không làm một việc mà pháp luật bắt buộc phải làm, như các hành vi: không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 102 Bộ luật hình sự); không tố giác tội phạm (Điều 314 Bộ luật hình sự) [2]. Các tội pham có cấu thành cách thức là những tội phạm được quy định tại khoản 1 các Điều 78 – 84, 86-91, 133, 134… Bộ luật hình sự.

Tội phạm có cấu thành tội phạm cách thức được coi là hoàn thành từ thời gian thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được mô tả trong điều luật phần các tội phạm Bộ luật hình sự.

2. Ý nghĩa của cấu thành tội phạm

2.1 Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lí của trách nhiệm hình sự

Khoản 1 Điều 2 Bộ luật hình sự khẳng định: “Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu TNHS…”. Khoản 2 của Điều này cũng khẳng định, pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm do cá nhân thực hiện trong trường hợp được luật hình sự quy định.

Vì vậy, xét về mặt pháp lí, một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu họ đã thực hiện hành vi được quy định trong Bộ luật hình sự.

Muốn biết hành vi có được quy định trong Bộ luật hình sự được không và do vậy có phải chịu trách nhiệm hình sự được không thì phải xác định hành vi đó có thoả mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được không. Nếu hành vi có đủ các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm thì có nghĩa hành vi đó là hành vi phạm tội được quy định trong luật hình sự và người thực hiện phải chịu trách nhiệm hình sự. Theo đó, pháp nhân thương mại cũng sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự cùng nếu thoả mãn các quy định về “điều kiện chịu trách nhiệm hình sự” (Điều 75 Bộ luật hình sự) và về “phạm vi chịu trách nhiệm hình sự” (Điều 76 Bộ luật hình sự).

Khi nói về trách nhiệm hình sự cần phải hiểu trước hết là trách nhiệm hình sự của cá nhân và trách nhiệm hình sự của cá nhân phải dựa trên cơ sở pháp lí là cấu thành tội phạm. trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại tuy có quan hệ với cấu thành tội phạm vì có quan hệ với hành vi phạm tội của cá nhân nhưng trực tiếp dựa trên quy định về điều kiện và phạm vi chịu trách nhiệm hình sự tại các điều 75 và 76 BLHS. Do vậy, khi nói cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lí của trách nhiệm hình sự thì cần hiểu trước hết là trách nhiệm hình sự của cá nhân.

Vì phải dựa vào những dấu hiệu của cấu thành tội phạm để nhận định hành vi có phải là tội phạm được không và người thực hiện hành vi có phải chịu trách nhiệm hình sự được không cho nên cấu thành tội phạm được coi là cơ sở pháp lí của trách nhiệm hình sự, là điều kiện cần và đủ của trách nhiệm hình sự. Chủ thể thực hiện hành vi chỉ có thể phải chịu trách nhiệm hình sự nếu hành vi của họ có đủ những dấu hiệu của cấu thành tội phạm và khi hành vi đã thoả mãn tất cả các dấu hiệu của cấu thành tội phạm thì đã có trọn vẹn cơ sở để có thể buộc người có hành vi phải chịu trách nhiệm hình sự mà không đòi hỏi gì thêm.

2.2 Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lí để định tội danh

Định tội là việc xác định hành vi đã thực hiện phạm tội cụ thể trong luật hình sự. Định tội là cơ sở cần thiết để có thể truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội cũng như pháp nhân thương mại trong những trường hợp nhất định. Trong Bộ luật hình sự Việt Nam, từng tội phạm được quy định đều có tội danh. Do vậy, định tội ở đây cũng đồng nghĩa với định tội danh. Muốn định tội danh cho hành vi cụ thể, người áp dụng luật hình sự phải căn cứ vào các cấu thành tội phạm đã được quy định trong Bộ luật hình sự. Việc xác định tội danh là quá trình xác định hành vi thoả mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm trong Bộ luật hình sự.

Nếu các tình tiết của hành vi phạm tội phù hợp với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự thì hành vi được định theo tội danh của cấu thành tội phạm đó.

Vì vậy, cấu thành tội phạm là căn cứ pháp lí cùa việc định tội danh. Chỉ có thể căn cứ vào cấu thành tội phạm đã được quy định trong Bộ luật hình sự mới có thể định tội danh được.

2.3 Cấu thành tội phạm là cơ sở pháp lí để định khung hình phạt

Định khung hình phạt là việc xác định hành vi phạm tội đã thoả mãn cấu thành tội phạm cơ bản có thuộc khung hình phạt tăng nặng hoặc giảm nhẹ không và thuộc khung nào (trong trường hợp điều luật có quy định các khung hình phạt tăng nặng hoặc giảm nhẹ khác nhau). Trong những trường hợp như vậy, cấu thành tội phạm tăng nặng cũng như cấu thành tội phạm giảm nhẹ là cơ sở pháp lí để xác định khung hình phạt.

Nếu các tình tiết của hành vi phạm tội phù hợp với dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng hoặc giảm nhẹ thì khung hình phạt được áp dụng là khung hình phạt cố dấu hiệu định khung hình phạt đó.

Nêu hành vi phạm tội không có tình tiết nào phù hợp với dấu hiệu định khung hình phạt tăng nặng hoặc giảm nhẹ thì khung hình phạt được áp dụng là khung hình phạt cơ bản. Khi đó cấu thành tội phạm cơ bản tuy là cơ sở pháp lí để định tội danh nhưng cũng có thể được coi đồng thời là cơ sở pháp lí để xác định khung hình phạt.

3. Các câu hỏi liên quan thường gặp

3.1 Cấu thành tội phạm là gì?

Cấu thành tội phạm là tổng thể các dấu hiệu pháp lý đặc trưng (khách quan và chủ quan) được quy định trong Luật Hình sự thể hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể là tội phạm, tức là căn cứ vào các dấu hiệu đó một hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm.

3.2 Đặc điểm của cấu thành tội phạm

+ Cấu thành tội phạm phải có các dấu hiệu pháp lý khách quan và chủ quan có tính chất bắt buộc; các dấu hiệu này phải phản ánh đúng bản chất của tội phạm để có thể phân biệt tội phạm này với tội phạm khác. Ngoài các dấu hiêu bắt buộc thì cấu thành tội phạm còn có dấu hiệu riêng để phản ánh bản chất riêng của tội phạm cụ thể.

+ Các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự.

+ Phải tổng hợp trọn vẹn các dấu hiệu pháp lý của cấu thành tội phạm mới khẳng định hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật cấm.

Trên đây là nội dung trình bày mà chúng tôi gửi tới đến Quý bạn đọc về Cấu thành vật chất và cấu thành cách thức trong khoa học luật hình sự. Trong quá trình nghiên cứu và nghiên cứu, nếu như quý bạn đọc còn câu hỏi hay quan tâm đến Cấu thành vật chất và cấu thành cách thức trong khoa học luật hình sự, quý bạn đọc vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hướng dẫn.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com