Chế định bảo lãnh theo Bộ luật dân sự năm 2015 - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Chế định bảo lãnh theo Bộ luật dân sự năm 2015

Chế định bảo lãnh theo Bộ luật dân sự năm 2015

Bảo lãnh theo hướng dẫn của Bộ luật Dân sự năm 2015 là biện pháp bảo đảm mang tính chất đối nhân, theo đó người thứ ba cam kết (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.

Bảo lãnh là gì?

Để phù hợp với tính chât đối nhân của bảo lãnh, Bộ luật Dân sự năm 2015 không cho phép bên nhận bảo lãnh có quyền xử lý tài sản của bên bảo lãnh để thanh toán nghĩa vụ của bên được bảo lãnh khi chủ thể này vi phạm nghĩa vụ. Trong trường hợp này, bên nhận bảo lãnh chỉ có quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải thanh toán giá trị nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh vi phạm, bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường tổn hại, lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Nếu bên bảo lãnh không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên nhận bảo lãnh có thể yêu cầu tòa án hoặc trọng tài (nếu có thỏa thuận) buộc bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh.

Tuy nhiên, để tạo niềm tin cho các bên, nâng cao trách nhiệm của bên được bảo lãnh và bên bảo lãnh trong thực hiện nghĩa vụ, cũng như để bảo đảm phòng ngừa, hạn chế rủi ro pháp lý, tạo sự linh hoạt trong giao dịch, Bộ luật Dân sự năm 2015 ghi nhận các cơ chế pháp lý:

(i) Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh;

(ii) Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản (ví dụ như cầm cố, thế chấp) để thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.

(iii) Nghĩa vụ được bảo lãnh có thể là nghĩa vụ phát sinh trong tương lại. Trường hợp này phạm vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại.

Hình thức cam kết của biện pháp bảo lãnh

Về cơ bản, Bộ luật Dân sự về giao dịch bảo đảm chỉ đặt ra yêu cầu duy nhất về cách thức là việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản. Nhìn chung, dù được thể hiện bằng cách thức văn bản nào đi chăng nữa (hợp đồng bảo lãnh, thư bảo lãnh, quyết định bảo lãnh, v.v..) thì phải nhìn nhận cam kết bảo lãnh là hợp đồng chứ không phải là một hành vi pháp lý đơn phương vì nó kéo theo sự trao đổi việc chấp thuận giao kết hợp đồng giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh – là các bên của quan hệ bảo lãnh. Đây là hợp đồng đơn vụ vì chỉ có bên bảo lãnh là bên có nghĩa vụ.

Tính chất của biện pháp bảo lãnh

Chế định bảo lãnh của Việt Nam đặc biệt có lợi cho bên nhận bảo lãnh. Thực vậy, theo hướng dẫn tại Điều 361 của Bộ luật Dân sự, nếu khi nghĩa vụ được bảo lãnh đến hạn mà bên được bảo lãnh (chẳng hạn bên đi vay) không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ này thì bên bảo lãnh sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh và các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình.

Điều đó có nghĩa là, khi các bên không có thỏa thuận thì khi nghĩa vụ được bảo lãnh đến hạn nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ này, bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mà không cần phải chứng minh với bên bảo lãnh việc bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ. Trong trường hợp công ty mẹ bảo lãnh cho công ty con, ngân hàng đương nhiên sẽ được lợi hơn khi gọi bảo lãnh vì thông thường, công ty mẹ có tiềm lực tài chính tốt hơn công ty con.

Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh

Bên bảo lãnh có thể cầm cố hay thế chấp tài sản của mình để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh (Điều 44 Nghị định 163). Cần phân biệt trường hợp này với trường hợp cầm cố, thế chấp tài sản của người thứ ba. Với cơ chế cầm cố, thế chấp tài sản của người thứ ba, bên thứ ba dùng tài sản của mình để bảo đảm trực tiếp nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối với bên có quyền (bên nhận cầm cố, thế chấp) và nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ được bảo đảm, bên nhận cầm cố, thế chấp có quyền xử lý tài sản cầm cố, thế chấp. Nếu giá trị tài sản cầm cố, thế chấp không đủ để thanh toán nghĩa vụ được bảo đảm, bên thế chấp không phải thanh toán phần còn thiếu.

Về biện pháp bảo đảm bằng tài sản của người thứ ba, Nghị định 163 có các quy định riêng về việc cầm cố, thế chấp tài sản của bên thứ ba (khoản 1 Điều 4 và khoản 2 Điều 57). Giá trị pháp lý của biện pháp bảo đảm này chỉ có thể được thừa nhận nếu hiểu khái niệm “bên bảo đảm” trong giao dịch dân sự trong định nghĩa về cầm cố (Điều 326 BLDS) và định nghĩa về thế chấp (Điều 342 BLDS) theo hướng mở rộng. Thực vậy, nếu hiểu “bên bảo đảm” theo nghĩa bên có nghĩa vụ (tức là tài sản bảo đảm phải thuộc sở hữu của bên có nghĩa vụ) thì chế định cầm cố, thế chấp tài sản của bên thứ ba của Nghị định 163 vi phạm quy định của BLDS và nếu như thế, hợp đồng cầm cố, thế chấp tài sản của người thứ ba sẽ bị vô hiệu. Thiết nghĩ, nên thừa nhận giá trị pháp lý của biện pháp bảo đảm này vì nó cũng được xây dựng trên cơ sở tôn trọng sự thỏa thuận của các bên và góp phần tăng cường tính đa dạng của các biện pháp giao dịch bảo đảm

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com