Chế định đại diện trong Bộ luật Dân sự 2015

Bộ luật dân sự (BLDS) 2015 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 24/11/2015 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017. Bộ luật này có khá nhiều quy định mới liên quan đến chế định uỷ quyền, Luật LVN Group xin gửi đến quý bạn đọc nội dung trình bày: “Chế định uỷ quyền trong Bộ luật Dân sự năm 2015”.

1. Đại diện là gì? 

Đại diện là một chế định cần thiết trong đời sống pháp lý xã hội. Bất kỳ hệ thống pháp luật nào cũng đều xem đây là một chế định cần thiết, chế định trung tâm của luật dân sự hiện đại[1]. Khoản 1 Điều 134 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015 quy định: “Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi là người uỷ quyền) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọi là người được uỷ quyền) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự”. Mặc dù quy định này không chỉ ra nguồn gốc hay căn cứ làm phát sinh ra quan hệ uỷ quyền, nhưng chỉ rõ phạm vi thẩm quyền và mục tiêu của quan hệ uỷ quyền là hướng tới việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, và những yêu cầu cần đáp ứng khi thực hiện hành động uỷ quyền.

2. Chế định uỷ quyền trong Bộ luật dân sự năm 2015

    BLDS 2015 đã chính thức cho phép một pháp nhân có thể ủy quyền cho một pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch cho mình. Khoản 1 Điều 134 BLDS 2015 quy định: Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (người uỷ quyền) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (người được uỷ quyền) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Đây là điểm mới đáng ghi nhận so với quy định cũ. BLDS 2005 dường như chỉ cho phép cá nhân là người uỷ quyền cho cá nhân hay pháp nhân khác.
Về phạm vi uỷ quyền, theo khoản 3 Điều 141 BLDS 2015 thì phạm vi uỷ quyền được mở rộng hơn so với quy định tại BLDS 2005, theo đó “một cá nhân, pháp nhân có thể uỷ quyền cho nhiều cá nhân hoặc pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh người được uỷ quyền để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là người uỷ quyền của người đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Mặt khác, theo khoản 2 Điều 137 BLDS 2015 thì “một pháp nhân có thể có nhiều người uỷ quyền theo pháp luật và mỗi người uỷ quyền có quyền uỷ quyền cho pháp nhân theo hướng dẫn tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ luật này”. Việc quy định cho phép một pháp nhân có thể có nhiều người uỷ quyền theo pháp luật của BLDS 2015 đã đảm bảo sự tương thích với quy định của Luật doanh nghiệp 2014 trong việc quy định công ty TNHH và công ty cổ phần “có thể có một hoặc nhiều người uỷ quyền theo pháp luật.” Sự tương thích giữa quy định của luật chung và luật chuyên ngành trong trường hợp này đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể thực hiện quyền của mình một cách thuận lợi hơn, cho phép các uỷ quyền theo pháp luật của pháp nhân khi tham gia vào một giao dịch dân sự sẽ dễ dàng hơn khi xác định quyền uỷ quyền và phạm vi uỷ quyền của mình, từ đó bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của các bên.
Ở nước ta, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, chế định uỷ quyền không được chú ý trọn vẹn bởi kinh tế tư nhân không phát triển, và sinh hoạt kinh tế hầu như chỉ dựa vào ý chí của Nhà nước. Do đó, các mối quan hệ xã hội không thực sự phức tạp. Kể từ khi chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, do đòi hỏi khách quan của các quan hệ xã hội, chế định uỷ quyền đã được chú ý hơn. Tuy nhiên, việc điều chỉnh của BLDS về chế độ uỷ quyền lại chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu. Bên cạnh đó, BLDS năm 2015 còn bộc lộ một khiếm khuyết nữa là có sự mâu thuẫn giữa các khoản của Điều 141. Căn cứ, trong khi khoản 2 thừa nhận trường hợp phạm vi của uỷ quyền không xác định, thì khoản 4 lại đưa ra đòi hỏi người uỷ quyền phải thông báo cho bên giao dịch biết phạm vi uỷ quyền của mình. Có thể hiểu khoản 4 này đặt ra hai điều kiện đối với người uỷ quyền khi tiến hành hoạt động uỷ quyền:
(1) thông báo với đối tác về việc uỷ quyền cho ai;
(2) thông báo về phạm vi uỷ quyền. Xem các định nghĩa và giải thích về chế định uỷ quyền trong pháp luật của các nước Anh, Mỹ nêu trên cho thấy, các định nghĩa đó chỉ nhằm giúp xác định quan hệ nào là quan hệ uỷ quyền chứ không nhằm tới việc xác định các điều kiện của việc tiến hành hoạt động uỷ quyền.
Vì vậy, việc bỏ quy định của khoản 4 Điều 141 của BLDS năm 2015 sẽ giúp cho chúng ta có một chế định uỷ quyền gần gũi hơn với các hoạt động phức tạp trong nền kinh tế thị trường. Hơn nữa việc bỏ các quy định này làm cho các quy định tại khoản 2 và khoản 3, Điều 143 của BLDS năm 2015 trở nên có ý nghĩa. Các khoản này quy định như sau: “(2) Trường hợp giao dịch dân sự do người uỷ quyền xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi uỷ quyền không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được uỷ quyền đối với phần giao dịch được xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi uỷ quyền thì người uỷ quyền phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch vượt quá phạm vi uỷ quyền, trừ trường hợp người đã giao dịch biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi uỷ quyền mà vẫn giao dịch;
(3) Người đã giao dịch với người uỷ quyền có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc huỷ bỏ giao dịch dân sự đối với phần vượt quá phạm vi uỷ quyền hoặc toàn bộ giao dịch dân sự và yêu cầu bồi thường tổn hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc vượt quá phạm vi uỷ quyền mà vẫn giao dịch hoặc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này”. Các quy định này cho thấy, nhà làm luật đã dự liệu trường hợp người thứ ba giao dịch với người uỷ quyền không phải lúc nào cũng biết phạm vi uỷ quyền của người uỷ quyền.
Có ý kiến cho rằng  quy định của khoản 4, Điều 141 là cần thiết vì nó đặt ra nghĩa vụ cho người uỷ quyền phải thông báo phạm vi uỷ quyền của mình cho bên thứ ba giao kết hợp đồng để tránh gây những rắc rối. Tuy nhiên, việc ấn định nghĩa vụ này lại có thể làm nảy sinh các trường hợp rắc rối hơn. Căn cứ, nếu nghĩa vụ này bị vi phạm thì xem như người uỷ quyền vi phạm điều cấm bởi vi phạm điều cấm cần được quan niệm là luật không cho hành động nhưng vẫn cứ hành động hoặc luật buộc hành động nhưng không hành động. Hợp đồng giao kết mà vi phạm điều cấm thì được coi là vô hiệu. Vì vậy, trong trường hợp này, quy định của khoản 2 và khoản 3 Điều 143 của BLDS năm 2015 không còn ý nghĩa.
Mặt khác, quy định của khoản 3 Điều 134 BLDS năm 2015: “Trường hợp pháp luật quy định thì người uỷ quyền phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập thực hiện”. Quy định này có thể hiểu, trong trường hợp pháp luật không quy định, người uỷ quyền không nhất thiết phải có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự, hay nói cách khác, người vô năng có thể là uỷ quyền[6]. Vì vậy, BLDS năm 2015 đã bỏ qua các giao dịch xác lập và thực hiện với người vô năng và bỏ qua các hậu quả pháp lý liên quan tới người được uỷ quyền trong trường hợp lựa trao quyền cho người vô năng.

3. Dịch vụ tư vấn Luật LVN Group

Trên đây là thông tin về Chế định uỷ quyền trong Bộ luật Dân sự năm 2015mà Công ty Luật LVN Group gửi đến quý bạn đọc tham khảo. Nếu cần cung cấp thêm thông tin chi tiết quy định về uỷ quyền, quý khách vui lòng truy cập trang web: https://lvngroup.vn để được trao đổi cụ thể.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com