Chế Định Kết Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Năm 2014 - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Chế Định Kết Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Năm 2014

Chế Định Kết Hôn Trong Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Năm 2014

Chế định kết hôn là gì? Những quy định trong Chế định kết hôn bao gồm những gì? Hãy cùng theo dõi nội dung trình bày sau đây để biết thêm thoogn tin chi tiết và cụ thể về Chế định kết hôn.

Chế định kết hôn

1. Về kết hôn

Quy định của Luật HNGĐ về điều kiện kết hôn, đăng ký kết hôn và đường lối giải quyết hủy kết hôn trái pháp luật, xử lý kết hôn không đúng thẩm quyền, giải quyết hậu quả của việc nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn đã có nhiều tiến bộ, đột phá so với Luật HNGĐ năm 2000. Về cơ bản, đã bảo đảm tốt hơn việc thực hiện quyền kết hôn của người dân theo tinh thần Hiến pháp cũng như bảo đảm hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước có liên quan, hạn chế những vấn đề bất cập trong các quan hệ xã hội về hôn nhân và gia đình.

2. Các quy định về điều kiện kết hôn

2.1. Về độ tuổi kết hôn

Luật HNGĐ năm 2014 đã thay đổi độ tuổi kết hôn, bắt buộc nam phải từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ phải từ đủ 18 tuổi trở lên mới được kết hôn , so với “nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên” như Luật HNGĐ 2000. Sự thay đổi này thể hiện sự tiến bộ trong việc xây dựng pháp luật nhằm giải quyết những bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật.

Từ sự thay đổi tiến bộ này, Luật HNGĐ 2014 đã  khắc phục nhiều điểm không hợp lí về độ tuổi kết hôn của Luật HNGĐ năm 2000, như:

– Về tâm sinh líkhi người phụ nữ đủ 18 tuổi thì cơ thể hoàn thiện, việc mang thai và sinh con sẽ an toàn hơn, mặt khác khi này tâm lí đã hoàn thiện nên việc tiếp nhận khối lượng kiến thức và kinh nghiệm trong cuộc sống sẽ tốt hơn, xử lý được các vấn đề trong cuộc sống.

– Về mặt lập pháp: thiếu sự thống nhất, đồng bộ trong hệ thống văn bản pháp luật. Theo quy định của BLDS thì người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên. Người từ đủ 16 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hoặc pháp luật có quy định khác. Đồng thời, theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự thì đương sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên mới có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Như vậy, nếu cho phép người chưa đủ 18 tuổi kết hôn không những tạo ra sự thiếu thống nhất, đồng bộ trong hệ thống văn bản pháp luật mà còn hạn chế một số quyền của người nữ khi xác lập giao dịch, hạn chế quyền yêu cầu ly hôn (phải có người đại diện). Luật HNGĐ 2014 quy định tuổi kết hôn từ đủ 18 tuổi giúp đồng bộ hóa hệ thống pháp luật, đảm bảo trọn vẹn quyền, nghĩa vụ dân sự của người nữ.

2.2. Sự tự nguyện của các bên

       Tự nguyện kết hôn được hiểu là việc hai bên nam, nữ tự mình quyết định việc kết hôn và thể hiện ý chí là mong muốn trở thành vợ, chồng của nhau. Mỗi bên nam, nữ không bị tác động bởi bên kia hay của bất kỳ người nào khác khiến họ phải kết hôn trái với nguyện vọng của họ. Sự thể hiện ý chí phải thống nhất với ý chí. Hai bên nam, nữ mong muốn trở thành vợ, chồng xuất phát từ tình yêu thương giữa họ và nhằm mục đích là cùng xây dựng gia đình sự tự nguyện của bên nam, nữ trong việc kết hôn phải thể hiện rõ là họ mong muốn được gắn bó với nhau, cùng nhau chung sống suốt đời nhằm thỏa mãn nhu cầu tình cảm giữa hai người. Sự tự nguyện của các bên trong việc kết hôn là yếu tố cần thiết đảm bảo cho hôn nhân có thể tồn tại lâu dài bền vững.

        Điều 39 BLDS quy định: “Nam nữ có đủ điều kiện kết hôn theo hướng dẫn của pháp luật về hôn nhân và gia đình có quyền tự do kết hôn, không bên nào được ép buộc, lừa dối bên nào, không ai được cản trở hôn nhân tự nguyện”.

Sự tự nguyện của các bên phải xuất phát từ tình yêu chân chính giữa họ, đồng thời sự tự nguyn nam nữ trong việc kết hôn là nhằm xây dựng gia đình và cùng nhau chung sống lâu dài, vì vậy trong trường hợp các bên có sự tự nguyện, nhưng không vì mục đích hôn nhân mà nhằm mục đích vi phạm pháp luật, đạo đức xã hội thì sẽ không được Nhà nước công nhận và sẽ bị xử hủy. Việc kết hôn do hai bên nam nữ tự quyết định, không chịu tác động của bên kia hoặc bất kỳ người nào. Việc kết hôn do bị cưỡng ép, lừa dối thì không được pháp luật công nhận.

Sự tự nguyện của các bên phải được biểu hiện thông qua thủ tục ĐKKH, để đảm bảo việc kết hôn hoàn toàn tự nguyện, hai bên nam nữ phải cùng có mặt tại đơn vị có thẩm quyền về ĐKKH, nộp tờ khai đăng ký kết hôn, ngày mà đơn vị nhà nước có thẩm quyền tiến hành ĐKKH và trao giấy chứng nhận kết hôn thì cả hai bên nam và nữ vẫn phải có mặt.

        Việc kết hôn cũng có thể bị cản trở, cản trở hôn nhân là hành vi của người thứ ba, thông thường hành vi cản trở được thực hiện bởi gia đình, những người mà bản thân bên nam nữ kết hôn có sự lệ thuộc, với hành vi cản trở hôn nhân phải lên án đồng thời và kịp thời ngăn chặn nếu cấu thành tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ được quy định tại Điều 146 BLHS 1999 thì cần tiến hành xử lý, việc xử lý góp phần tích cực bảo đảm tự do hôn nhân của công dân. Để đảm bảo việc kết hôn hoàn toàn tự nguyên, pháp luật không thừa nhận quyền uỷ quyền trong kết hôn.

3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn

Pháp luật quy định các trường họp cấm kết hôn là nhằm bảo vệ chế độ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ, một chồng; giữ gìn thuần phong mỹ tục của người Việt Nam đối với đời sống hôn nhân và gia đình, góp phần duy trì và bảo tồn nòi giống, thúc đẩy sự phát triển chung của xã hội. Theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 số 52/2014/QH13, việc kết hôn bị cấm trong các trường hởp sau:

+ cẩm kết hôn giả tạo. Quy định điều cấm thể hiện rõ thái độ của Nhà nước ta trong việc bảo vệ quyền tự do kết hôn của cá nhân, góp phần xây dựng gia đình Việt Nam tiến bộ, hạnh phúc.

+ Cấm kết hôn đối với người đang có vợ, có chồng hoặc cấm người không có vợ, có chồng kết hôn với người đang có vợ, có chồng.

Người đang có vợ, có chồng là người đang tồn tại một quan hệ hôn nhân được Nhà nước thừa nhận. Theo quy định của Luật hôn nhân gia đình năm 2014 số 52/2014/QH13, các trường họp được coi là đang có vợ, có chồng bao gồm:

– Người đã kết hôn theo đúng quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và quan hệ hôn nhân đó vẫn đang tồn tại (chưa chấm dứt hôn nhân do sự kiện ly hôn, hoặc một bên chết hay một bên có quyết định của Tòa án tuyên bố là đã chết);

– Người sống chung với người khác như vợ chồng từ trước ngày 3/01/1987 và đang chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Theo quy định tại Điều 131 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 số 52/2014/QH13:

“Quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập trước ngày Luật này có hiệu lực thì áp dụng pháp luật về hôn nhân và gia đình tại thời gian xác lập để giải quyết”.

Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này thì đối với trường họp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 3/01/1987 không đăng ký kết hôn nhưng tuân thủ các điều kiện kết hôn thì vẫn được thừa nhận là vợ chồng.

Vì vậy, chỉ những người không có vợ, có chồng hoặc đã có vợ, có chồng nhưng hôn nhân trước đã chấm dứt thì mới được phép kết hôn. Nếu người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác hoặc người không có vợ, có chồng mà kết hôn với người đang có vợ hoặc có chồng thì việc kết hôn đó là trái pháp luật. Quy định điều cấm này nhằm bảo vệ nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng, góp phần xây dựng gia đình hòa thuận, hạnh phúc. Quy định điều cấm này còn góp phần xóa bỏ chế độ đa thê, giải phóng và nâng cao vị thế của người phụ nữ trong xã hội.

Hy vọng nội dung trình bày trên đã gửi tới những thông tin bổ ích về chế định kết hôn. Nếu có những câu hỏi liên quan đến chế định kết hôn hãy liên hệ Công ty Luật LVN Group để được tư vấn và hỗ trợ.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com