Trên thế giới, nhất là tại các nước đang phát triển, Kiểm toán nhà nước ra đời rất sớm và đóng một vai trò hết sức cần thiết trong quá trình kiểm soát, quản lý việc sử dụng nguồn tài sản quốc gia. Với vai trò là đơn vị kiểm tra tài chính công cao nhất, Kiểm toán nhà nước là công cụ không thể thiếu của Quốc hội và Chính phủ trong điều hành nền kinh tế nói chung và quản lý nguồn tài sản quốc gia nói riêng. Bài viết dưới đây sẽ gửi tới cho quý bạn đọc về Chế định kiểm toán nhà nước theo Hiến pháp 2013
Chế định kiểm toán nhà nước theo Hiến pháp 2013
1 Chế định kiểm toán nhà nước theo Hiến pháp 2013
Hiến pháp hiện hành của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành năm 2013 đã lần đầu tiên có quy định riêng về Kiểm toán nhà nước, và quy định này được đặt trong một chương riêng cùng với Hội đồng bầu cử quốc gia. Sự hiến định này đã khẳng định, ít nhất là về cách thức, rằng Kiểm toán nhà nước đã chính thức là một Cơ quan hiến định độc lập trong bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cùng với điều đó, địa vị pháp lý của Kiểm toán nhà nước cũng được nâng lên một tầm mới, bởi lẽ Hiến pháp là đạo luật cơ bản, các đơn vị nhà nước được quy định trong Hiến pháp đều là những đơn vị cần thiết nhất của quốc gia, ví dụ Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ v.v..
Thứ hai, Kiểm toán nhà nước vẫn tiếp tục là đơn vị do Quốc hội thành lập. Tổng Kiểm toán nhà nước vẫn do Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị và Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm. Song điểm mới ở đây là luật không yêu cầu Ủy ban thường vụ Quốc hội thống nhất ý kiến với Chính phủ trước khi đề nghị sang Quốc hội.’ Bên cạnh sự phát triển này, các Phó tổng Kiểm toán nhà nước vẫn do Tổng Kiểm toán nhà nước đề nghị và Ủy ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Song, sự chi phối về mặt tổ chức của Tổng Kiểm toán nhà nước đối với tất cả các chức danh kiểm toán viên giờ đây là tuyệt đối, khác với trước đây chức danh Kiểm toán viên cao cấp do Ủy ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi nhiệm. Vì vậy là tổ chức của Kiểm toán nhà nước theo Luật năm 2015 thậm chí còn tăng cường hơn nữa tính độc lập của Kiểm toán nhà nước so với giai đoạn trước đó. Cũng cần lưu ý là Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015 quy định Tổng Kiểm toán nhà nước có nhiệm kỳ chỉ 5 năm theo nhiệm là của Quốc hội; Phó tổng Kiểm toán nhà nước có nhiệm kỳ 5 năm. Trong khi đó theo Luật Kiểm toán nhà nước năm 2005, cả hai chức danh này đều có nhiệm kỳ 7 năm. Tuy nhiên, ở góc độ thực tiễn thì sự khác biệt này không có ảnh hưởng nhiều tới tính độc lập của Kiểm toán nhà nước.
Thứ ba, về chế độ trách nhiệm, cùng với việc Chính phủ không tham gia vào quá trình hình thành Tổng Kiểm toán nhà nước, Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015 cũng không quy định Kiểm toán nhà nước phải chịu trách nhiệm trước Chính phủ.
Ngoài những bổ sung và phát triển trên, Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015 về cơ bản kế thừa các quy định của Luật Kiểm toán nhà nước năm 2005 về hoạt động của Kiểm toán nhà nước. Tất nhiên có sự khác biệt liên quan tới quy định báo cáo Chính phủ về kế hoạch kiểm toán hàng năm trước khi thực hiện. Luật năm 2015 đã bỏ quy định này, qua đó 4 chấm dứt hầu như toàn bộ khả năng chi phối của Chính phủ cũng như các đơn vị thuộc hệ thống hành chính nhà nước đối với Kiểm toán nhà nước về mặt pháp lí.
2 Chức năng của Kiểm toán nhà nước
Chức năng của Kiểm toán nhà nước chính là tiến hành các hoạt động kiểm toán công. Chức năng của Kiểm toán nhà nước có một số đặc điểm sau.
2.1.Đối tượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước
Đối tượng kiểm toán của Kiểm toán nhà nước là tất cả các hoạt động quản lí, sử dụng tài chính công, tài sản công và các hoạt động liên quan đến việc quản lí, sử dụng tài chính công, tài sản công của các đơn vị, tổ chức có sử dụng tài chính, tài sản công. Luật Kiểm toán nhà nước năm 2015 không có sự hạn chế đối với các chủ thể sử dụng ngân sách nhà nước có thể trở thành đơn vị bị kiểm toán bởi Kiểm toán nhà nước, đối tượng bị kiểm toán có thể là các bộ, Văn phòng chính phủ, các doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức xã hội v.v.. Sự hạn chế phạm vi kiểm toán của Kiểm toán nhà nước đến từ nguồn tài chính và tài sản được sử dụng là ngân sách nhà nước và tài sản công. Kiểm toán nhà nước không tiến hành kiểm toán đối với việc sử dụng nguồn tài chính hoặc tài sản khác. Vì vậy, Kiểm toán nhà nước không tiến hành kiểm toán đối với các doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân không sử dụng ngân sách nhà nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không sử dụng ngân sách và tài sản của Nhà nước Việt Nam cũng không chịu sự kiểm toán của Kiểm toán nhà nước. Những đối tượng đó thuộc phạm vi kiểm toán của kiểm toán thương mại độc lập theo hướng dẫn của pháp luật về kiểm toán độc lập.
2.2.Tính quyền lực nhà nước của hoạt động kiểm toán nhà nước
Kiểm toán nhà nước là hoạt động kiểm toán mang tính quyền lực nhà nước, nhân danh nhà nước. Theo quy định của pháp luật, hằng năm Kiểm toán nhà nước tự quyết định kế hoạch kiểm toán năm và báo cáo Quốc hội trước khi thực hiện. Mặt khác, Kiểm toán nhà nước cũng có thể tiến hành các cuộc kiểm toán không nằm trong kế hoạch năm nhưng phải dưới cách thức được Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ hay Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ. Có thể hiểu là nếu những đơn vị này giao nhiệm vụ kiểm toán thì Kiểm toán nhà nước phải thực hiện. Các đơn vị khác, bao gồm Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cũng có thể đề nghị Kiểm toán nhà nước tiến hành một cuộc kiểm toán nào đó. Khi đó Kiểm toán nhà nước có thể xem xét, quyết định chứ không có nghĩa vụ đáp ứng đề nghị kiểm toán. Đó là 3 căn cứ pháp lý để Kiểm toán nhà nước tiến hành một cuộc kiểm toán và khi cuộc kiểm toán đã được quyết định tiến hành một cách hợp pháp thì đối tượng bị kiểm toán phải chấp hành kiểm toán của Kiểm toán nhà nước Hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước không dựa trên mối quan hệ khách hàng – nhà gửi tới dịch vụ như quan hệ kiểm toán độc lập trong nền kinh tế.
2.3. Tính chuyên môn và khách quan của hoạt động kiểm toán nhà nước
Hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước, cũng giống như các hoạt động kiểm toán thương mại độc lập, là hoạt động mang tính chuyên môn và tính khách quan rất cao. Hoạt động của Kiểm toán nhà nước không phải hoạt động mang tính chất chính trị hay đơn thuần là hành chính điều hành. Hoạt động mang tính chất chính trị, ví dụ hoạt động ban hành luật hay chính sách của Quốc hội hay Chính phủ, là những hoạt động lấy quyết định theo đa số. Đa số quyết định có nghĩa là đúng và được thi hành. Các hoạt động hành chính điều hành dựa trên quan hệ cấp trên – cấp dưới. Cấp trên quyết định là cấp dưới thi hành, cho dù quyết định của cấp trên có thể sai hay đúng. Hoạt động chủ yếu của Kiểm toán nhà nước, cũng giống như các hoạt động kiểm toán khác, là công tác với những con số, với hóa đơn, chứng từ tài chính. Kiểm toán nhà nước xác nhận sự chính xác và hợp lý của sổ sách kế toán, hóa đơn, chứng từ có sẵn quy chiếu theo các quy chuẩn thể và chi tiết của kiểm toán, kế toán. Ở góc độ cụ nào đó, hoạt động này nhằm xác định cái đúng, cái sai căn cứ trên tiêu chuẩn nhất định. Vì vậy nó mang tính chuyên môn và khách quan. Cái gì đúng với quy chuẩn thì là đúng và cái gì sai với quy chuẩn thì là sai. Cũng chính vì vậy mà trong các công đoạn kiểm toán của Kiểm toán nhà nước, cũng như hoạt động kiểm toán khác, bao giờ cũng có một công đoạn dành cho đối tượng bị kiểm toán có ý kiến đối với các phát hiện và kết luận của Kiểm toán nhà nước trình bày trong dự thảo báo cáo kiểm toán, mục đích cũng là để tìm đến cái đúng, cái sai trong sử dụng tài chính, tài sản công một cách khách quan, chính xác nhất.
Bài viết trên đây chúng tôi đã gửi tới cho các quý bạn đọc về Chế định kiểm toán nhà nước theo Hiến pháp 2013. Trong quá trình nghiên cứu, nếu bạn có bất kỳ vấn đề gì câu hỏi hoặc có nhu cầu sử dụng dịch vụ của chúng tôi, hãy liên hệ ngay với Công ty Luật LVN Group, chúng tôi sẽ hỗ trợ và trả lời một cách tốt nhất.