Chế định miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự 2015 - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Chế định miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự 2015

Chế định miễn trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự 2015

Hiện nay, khi xã hội ngày càng phát triển đã kéo theo nhiều vấn đề phát sinh. Đặc biệt là các tệ nạn xã hội ngày càng nhiều. Chính vì vậy, pháp luật nước ta ban hành các quy phạm pháp luật để điều chỉnh các hành vi của con người và một văn bản luật có thể quy định nhiều quy phạm pháp luật để cùng điều chỉnh cho hành vi con người.
Sau đây, xin mời Quý bạn đọc cùng theo dõi nội dung trình bày Chế định xét xử phúc thẩm thuộc ngành luật nào? [Chi tiết 2023] để cùng trả lời các câu hỏi.

1. Chế định pháp luật là gì?

Hiện nay pháp luật nước ta không có một văn bản nào quy định về chế định là gì. Tuy nhiên, có một quan điểm về chế định pháp luật hay còn gọi là định chế pháp luật hoặc chế định là tập hợp một nhóm quy phạm pháp luật có đặc điểm giống nhau để điều chỉnh về nhóm quan hệ xã hội tương ứng trong phạm vi một ngành luật hoặc nhiều ngành luật. Chế định có thể được hiểu theo nghĩa rộng hoặc có thể nghĩa hẹp. Nghĩa chung và rộng là những yếu tố cấu thành cơ cấu pháp lý của thực tại xã hội và nghĩa hẹp là tổng thể các quy phạm, quy tắc của một vấn đề pháp lý.
Theo quan điểm của chuyên gia tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau thì chế định pháp luật là một tập hợp gồm hai hay một số quy phạm pháp luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội có tính chất chung và liên hệ mật thiết với nhau.
Ví dụ: Ngành luật dân sự có các chế định như chế định quyền sở hữu, chế định hợp đồng, chế định thừa kế..Ngành luật hình sự có các chế định như các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân…

2. Những trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự

    1.1. Người phạm tội đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự

Đương nhiên được miễn TNHS là trường hợp, khi một người có hành vi phạm tội mà có các căn cứ thỏa mãn quy định này thì sẽ được xem xét miễn TNHS mà không cần có bất kỳ một điều kiện nào khác kèm theo. Theo quy định tại Điều 16, khoản 1 Điều 29 BLHS và khoản 2 Điều 155 BLTTHS năm 2015, phải miễn TNHS cho người phạm tội khi thuộc các căn cứ sau:
Thứ nhất, người phạm tội tự ý nữa chừng chấm dứt việc phạm tội. Là trường hợp người phạm tội tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng tuy không có gì ngăn cản.
Thứ hai, khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa.
Thứ ba, khi có quyết định đại xá.
Thứ tư, miễn TNHS khi bị hại hoặc người uỷ quyền của bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố vụ án. Quy định này không được thể hiện trong BLHS, và cũng không thể hiện rõ về việc miễn TNHS đối với trường hợp này trong BLTTHS. Tuy nhiên, xét về bản chất của quy phạm, thấy rõ khi vụ án được khởi tố và người thực hiện hành vi bị khởi tố, nghĩa là hành vi của họ đã cấu thành một tội phạm cụ thể; nhưng sau đó bị hại hoặc người uỷ quyền của họ rút yêu cầu thì không tiếp tục giải quyết vụ án mà phải đình chỉ ngay.
Thứ năm, người đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ được giao và tự thú, thành khẩn khai báo với đơn vị nhà nước có thẩm quyền, thì được miễn TNHS (quy định khoản 4 Điều 110 BLHS).

    1.2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự

Trường hợp này điều kiện để xem xét miễn TNHS cho người phạm tội khắc khe hơn trường hợp được nêu trên. Ngoài căn cứ được quy định cụ thể trong BLHS thì đòi hỏi phải có sự đánh giá một cách toàn diện tất cả các tình tiết của vụ án của đơn vị, người tiến hành tố tụng về trường hợp nào được miễn, trường hợp nào không được miễn.
Thứ nhất, khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Căn cứ này hoàn toàn khác với căn cứ đương nhiên được miễn TNHS như phần trên.
Thứ hai, khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa.
Thứ ba, trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
Thứ tư, người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây tổn hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường tổn hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người uỷ quyền hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS. Quy định này mở rộng căn cứ để xem xét miễn TNHS cho người phạm tội khi họ thỏa mãn các điều kiện: một là, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng do vô ý hoặc ít nghiêm trọng; hai là, khách thể bị xâm hại là tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản; ba là, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường tổn hại hoặc khắc phục hậu quả; bốn là, người bị hại hoặc uỷ quyền hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS.
Thứ năm, người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp theo quy định và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 BLHS, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự (khoản 2 Điều 91 BLHS).
Thứ sáu, người nào trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định đã được giáo dục 2 lần và đã được tạo điều kiện ổn định cuộc sống hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc với số lượng từ 500 cây đến dưới 3.000 cây, nhưng đã tự nguyện phá bỏ, giao nộp cho đơn vị chức năng có thẩm quyền trước khi thu hoạch, thì có thể được miễn TNHS (quy định tại khoản 4 Điều 247 BLHS); người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn TNHS (quy định tại khoản 7 Điều 364 BLHS); người môi giới hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn TNHS (quy định tại khoản 6 Điều 365 BLHS); người không tố giác nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm, thì có thể được miễn TNHS (quy định tại khoản 2 Điều 390 BLHS). Tất cả các quy định tại các tội phạm cụ thể này đều thể hiện rõ chính sách khoan hồng đặc biệt của Nhà nước ta đối với người phạm tội.

3. Thẩm quyền quyết định miễn trách nhiệm hình sự

BLTTHS năm 2015 không quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, cũng như thẩm quyền miễn TNHS cho người phạm tội. Tuy nhiên, tại Điều 230 BLTTHS về đình chỉ điều tra và Điều 248 BLTTHS về đình chỉ vụ án của Viện kiểm sát, xác định Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án khi thuộc các trường hợp quy định tại Điều 16, Điều 29, khoản 2 Điều 91 BLHS hoặc khoản 2 Điều 155 BLTTHS. Nếu căn cứ vào quy định này, có thể khẳng định việc miễn TNHS thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát. Nhưng theo hướng dẫn tại Điều 29 BLHS, với cách hành văn thể hiện rõ:
“1. Người phạm tội được miễn TNHS khi có một trong những căn cứ sau đây: a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; b) Khi có quyết định đại xá.
Người phạm tội có thể được miễn TNHS khi có một trong các căn cứ sau đây: a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa; c) Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.
Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây tổn hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường tổn hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người uỷ quyền hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS, thì có thể được miễn TNHS”.
Mặt khác, tại Điều 16, khoản 2 Điều 91, khoản 4 Điều 110, khoản 4 Điều 247; khoản 7 Điều 364, khoản 6 Điều 365 và khoản 2 Điều 390 BLHS không thể hiện rõ thẩm quyền thuộc giai đoạn nào của quá trình tố tụng.
Rõ ràng tại điểm a khoản 1 và điểm a, b khoản 2 Điều 29 BLHS quy định rất rõ là “Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử” có nghĩa là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án miễn TNHS hoặc có thể miễn TNHS cho người phạm tội. Đối với Điều 16; điểm b khoản 1, điểm c khoản 2, khoản 3 Điều 29; khoản 2 Điều 91; khoản 4 Điều 110; khoản 4 Điều 247; khoản 7 Điều 364; khoản 6 Điều 365 và khoản 2 Điều 390 BLHS không thể hiện rõ là các đơn vị tiến hành tố tụng ở giai đoạn nào thì có thẩm quyền miễn TNHS cho người phạm tội.
Vì vậy, nếu khẳng định việc miễn TNHS được thực hiện ở các giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án khi xuất hiện các tình tiết có thể miễn TNHS là không chính xác. Bởi lẽ, chỉ khi xuất hiện các căn cứ được quy định ở điểm a khoản 1 và điểm a, b khoản 2 Điều 29 BLHS thì giai đoạn điều tra và truy tố mới có thẩm quyền, nghĩa là Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát mới có thẩm quyền miễn TNHS cho người phạm tội, còn lại các quy định tại điểm b khoản 1, điểm c khoản 2 và khoản 3 Điều 29, khoản 2 Điều 91 BLHS, khoản 4 Điều 110, khoản 4 Điều 247, khoản 7 Điều 364, khoản 6 Điều 365 và khoản 2 Điều 390 BLHS thì chỉ thuộc thẩm quyền của Tòa án. Việc khẳng định này được lý giải bởi hai lý do:
Thứ nhất, tại Điều 16, Điều 29 và khoản 2 Điều 91 BLHS không quy định giai đoạn điều tra và truy tố có thẩm quyền miễn TNHS khi có các căn cứ tương ứng.
Thứ hai, tại khoản 1 Điều 2 BLHS quy định “Chỉ người nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu TNHS”. Và Điều 13 BLTTHS quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Vì vậy, chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền xác định một người có tội được không có tội bằng bản án hoặc quyết định. Theo Điều 2 BLHS thì một người khi đã phạm tội thì họ phải chịu TNHS. Theo đó, khi đã xác định người nào đó phải chịu TNHS thì mới xuất hiện khái niệm miễn TNHS. Do đó, về mặt lý luận thì có thể khẳng định chỉ có Tòa án mới có thẩm quyền quyết định miễn TNHS cho người phạm tội. Tuy nhiên, trong thực tiễn có một số trường hợp khi phát sinh căn cứ để miễn TNHS, ở giai đoạn điều tra, truy tố cũng có thể thực hiện được. Nhưng việc miễn TNHS ở giai đoạn điều tra, truy tố không được xác định bằng quyết định miễn TNHS mà được thể hiện bằng quyết định đình chỉ điều tra và đình chỉ vụ án.
Mặt khác, đối với việc miễn TNHS đối với quy định tại khoản 4 Điều 110, khoản 4 Điều 247, khoản 7 Điều 364, khoản 6 Điều 365 và khoản 2 Điều 390 BLHS chỉ thuộc thẩm quyền của Tòa án. Vì chỉ trong quá trình xét xử, Tòa án xem xét tất cả các tình tiết của vụ án nếu thuộc trường hợp có thể miễn TNHS cho người phạm tội thì Hội đồng xét xử sẽ tuyên miễn TNHS cho họ.
Từ các phân tích trên, cho thấy quy định tại Điều 29 BLHS, quy định tại Điều 230 và 248 BLTTHS còn có sự mâu thuẫn lẫn nhau, chưa thể hiện rõ thẩm quyền quyết định việc miễn TNHS cho người phạm tội.
Tóm lại, miễn TNHS là chế định rất cần thiết được quy định trong BLHS thể hiện được chính sách hình sự nhân đạo, khoan hồng rất cao của Nhà nước ta đối với người phạm tội. Khi thực hiện đúng chế định này cũng đảm bảo được hiệu quả cao trong đấu tranh phòng, chống tội phạm kết hợp với việc giáo dục phòng ngừa chung. Tuy nhiên, để chế định này áp dụng trong thực tiễn có hiệu quả và đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật đối với người phạm tội, cũng như phù hợp giữa lý luận kết hợp với thực tiễn thì việc quy định phải phù hợp, thống nhất và rõ ràng. Theo đó, quy định về chế định này phải có sự thống nhất giữa pháp luật hình sự và tố tụng hình sự để trong thực tiễn áp dụng không có sự trùng lắp, mâu thuẫn lẫn nhau.

4. Giải đáp có liên quan

4.1. Chế định hình sự là gì?

Luật hình sự gồm những quy phạm pháp luật quy định hành vi nào là tội phạm và phải chịu hình phạt thế nào.

4.2. Chế định điều tra thuộc ngành luật nào?

Xác định đúng đắn các ngành luật và ranh giới giữa các ngành luật có ý nghĩa cần thiết trong quá trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật cũng như việc hệ thống hoá pháp luật. Hiện nay trong từng ngành luật có rất nhiều chế định, Chế định điều tra thuộc ngành luật tố tụng hình sự.

4.3. Xét xử phúc thẩm thuộc chế định ngành luật nào?

Xét xử phúc thẩm thuộc chế định ngành luật TTHS.
Trên đây là nội dung về Chế định xét xử phúc thẩm thuộc ngành luật nào? [Chi tiết 2023] mà LVN Group gửi tới đến bạn đọc. Trong quá trình nghiên cứu về vấn đề này, nếu có câu hỏi, vui lòng truy cập website https://lvngroup.vn/ để được tư vấn, hỗ trợ.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com