Chế Định Nguyên Thủ Quốc Gia Trong Hiến Pháp Năm 2013 - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Chế Định Nguyên Thủ Quốc Gia Trong Hiến Pháp Năm 2013

Chế Định Nguyên Thủ Quốc Gia Trong Hiến Pháp Năm 2013

Chế định nguyên thủ quốc gia trong hiến pháp 2013 là gì? Những nôi dung nào được quy định trong chế định nguyên thủ quốc gia trong hiến pháp 2013? Hãy cùng theo dõi nội dung trình bày dưới đây về chế định nguyên thủ quốc gia trong hiến pháp 2013 bạn !.

Chế định nguyên thủ quốc gia trong hiến pháp 2013

1. Khái niệm chế định pháp luật

Chế định pháp luật hay còn gọi là định chế pháp luật hoặc chế định là tập hợp một nhóm quy phạm pháp luật có đặc điểm giống nhau để điều chỉnh về nhóm quan hệ xã hội tương ứng trong phạm vi một ngành luật hoặc nhiều ngành luật. Chế định có thể được hiểu theo nghĩa rộng hoặc có thể nghĩa hẹp. Nghĩa chung và rộng là những yếu tố cấu thành cơ cấu pháp lý của thực tại xã hội và nghĩa hẹp là tổng thể các quy phạm, quy tắc của một vấn đề pháp lý.

Ví dụ: ngành luật dân sự có các chế định pháp luật như chế định quyền sở hữu, chế định thừa kế, chế định quyền chuyên gia, chế định hợp đồng,… Ngành luật hình sự có những chế định như các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người; các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân…

Chế định pháp luật là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội gần gũi. có cùng tính chất trong phạm vi mỗi ngành luật vốn bao gồm nhiều chế định.

Ví dụ: ngành luật dân sự có các chế định như chế định quyền sở hữu, chế định hợp đồng, chế định thừa kế, chế định quyền chuyên gia… Ngành luật hình sự có các chế định như các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người; các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân…

2. Vị trí, vai trò nguyên thủ quốc gia trong hiến pháp

Về vai trò, vị trí, Hiến pháp 2013[2] tiếp tục xác định Chủ tịch nước là người “đứng đầu Nhà nước” và“thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.Sự xác định như vậy về cơ bản là phù hợp với mô hình chính thể đại nghị và cũng phù hợp với nguyên tắc tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước, với thông lệ lập hiến thế giới và phù hợp với mô hình chính thể hiến định. Sự định vị rõ ràng vai trò, vị trí của nguyên thủ quốc gia trong hiến pháp có ý nghĩa cần thiết trong việc xác định thẩm quyền của nguyên thủ quốc gia và mối quan hệ của nguyên thủ quốc gia này với các đơn vị, hệ thống khác.

Quy định về việc hình thành nguyên thủ quốc gia trong Hiến pháp 2013 về cơ bản là không thay đổi so với các Hiến pháp trước đây, nguyên thủ do đơn vị lập pháp hình thành bằng bầu chọn. Về mặt khoa học, cách thức hình thành nguyên thủ quốc gia do dân bầu trực tiếp hay gián tiếp vẫn có những quan điểm khác nhau. Nhìn chung, quan điểm được sự chấp nhận nhiều hơn cho rằng, cách thức lựa chọn nguyên thủ quốc gia không ảnh hưởng đến việc vận hành quyền lực nhà nước mà sức mạnh thể chế. Thực chất, khung cảnh thể chế mới là yếu tố quyết định[3] . Thực tế tổ chức và vận hành các chính thể cũng cho thấy cũng có những chính thể đại nghị nhưng vẫn lựa chọn các hình thành nguyên thủ quốc gia bằng bẩu cử trực tiếp, phổ thông. Ví dụ, Austria, Finland, Estonia, Ireland, South Korea, Sri Lanka[4] . Vì vậy, có thể nói, việc lựa chọn nguyên thủ quốc gia trong Hiến pháp 2013 được quy định khá đơn giản. Điều này cũng phù hợp với mô hình tổ chức và vận hành quyền lực nhà nước và phù hợp với việc xác định trong hiến pháp về vị trí, vai trò của nguyên thủ quốc gia trong bộ máy nhà nước và đời sống chính trị nói chung.

Quyền hạn của nguyên thủ quốc gia

Việc đánh giá thẩm quyền của nguyên thủ quốc gia trong Hiến pháp Việt Nam hiện hành cũng theo các cách thức phổ biến hiện nay tức là đánh giá các quyền hạn hiến định cần thiết nhất của nguyên thủ quốc gia gắn với việc xác định mô hình chính thể[5] , bao gồm: quyền trong lĩnh vực bổ nhiệm, miễn nhiệm và bãi nhiệm các chức vụ trong bộ máy nhà nước; quyền phủ quyết (luật); quyền trong lĩnh vực hành pháp; quyền ban hành sắc lệnh; trình dự toán luật, ngân sách; quyền trong lĩnh vực nghi lễ, biểu tượng và tượng trưng.

3. Nguyên thủ quốc gia là gì? 

Nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nhà nước thực hiện các quan hệ đối nội và đối ngoại. Theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Điều 86 quy định: “Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại.” Vì vậy, ở nước ta, nguyên thủ quốc gia là Chủ tịch nước.

Tuy nhiên, điều này không hoàn toàn đồng nhất giữa các nước trên thế giới, sự khác nhau giữa nguyên thủ quốc gia trên thế giới phụ thuộc vào cách thức chính thể của nhà nước đó, ví dụ:

– Đối với cách thức chính thể quân chủ (quân chủ chuyên chế và quân chủ lập hiến), nguyên thủ quốc gia là “vua” như Thái Lan, Campuchia, Brunei,..- đối với mô hình nguyên thủ quân chủ tuyệt đối và mô hình nguyên thủ quân chủ nhị nguyên, Quốc vương là người có quyền lực tối cao, quyền hành pháp và lập pháp rất rộng lớn và có quyền can thiệp vào tư pháp. Đối với mô hình nguyên thủ quân chủ đại nghị, Quyền hạn của nhà vua bị hạn chế nhiều bởi Hiến pháp, có rất ít quyền lực và chỉ mang tính cách thức.

– Một chủ thể đặc biệt của luật quốc tế là Thành quốc Vatican, ở đó Giáo hoàng là nguyên thủ quốc gia và là nhà lãnh đạo Chính phủ, đồng thời là Giám mục Giáo phận Roma, là nhà lãnh đạo Tòa thánh và Giáo hội Công giáo Roma;

– Hình thức chính thể cộng hòa, trong đó có cộng hòa đại nghị, cộng hòa hỗn hợp, cộng hòa tổng thống- nguyên thủ quốc gia là tổng thống, (ví dụ như Mỹ, Pháp,…).  Đối với mô hình nguyên thủ cộng hòa đại nghị, nguyên thủ quốc gia chỉ là nhân vật tượng trưng cho Nhà nước, giữ vai trò uỷ quyền quốc gia về đối nội, đối ngoại, tham gia phần nào vào lập pháp và hành pháp tượng trưng. Đối với mô hình nguyên thủ cộng hòa tổng thống, nguyên thủ quốc gia là người đứng đầu Nhà nước và đứng đầu đơn vị hành pháp, tổng thống có quyền hạn rất lớn. Đối với mô hình nguyên thủ cộng hòa hỗn hợp, nguyên thủ quốc gia cũng có nhiều quyền hạn trên thực tiễn, được xác định là trung tâm của bộ máy quyền lực. Đối với mô hình nguyên thủ cộng hòa xã hội chủ nghĩa, nguyên thủ quốc gia đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại, có một phần quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp

– Trước đây, trong xã hội không có Hiến pháp thì nguyên thủ quốc gia có quyền lực vô hạn và là cá nhân uỷ quyền cho một quốc gia.

Về nguyên tắc, chủ tịch nước là uỷ quyền tượng trưng cho sự bền vững và tập trung của nhà nước.

Nguyên thủ quốc gia trong Tiếng Anh là “The head of state”.

4. Mối quan hệ giữa nguyên thủ quốc gia với đơn vị hành pháp trong Hiến pháp năm 2013

Văn kiện Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định “nghiên cứu xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước để thực hiện trọn vẹn chức năng nguyên thủ quốc gia, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại và thống lĩnh các lực lượng vũ trang; quan hệ giữa Chủ tịch nước với các đơn vị thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Với chủ trương này của Đảng, việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) trở thành một yêu cầu cấp bách, nhất là đối với các chế định độc lập, trong đó có chế định Chủ tịch nước.

Hiến pháp năm 2013 quy định về chế định nguyên thủ quốc gia với những thay đổi mang tính tích cực. Nguyên thủ quốc gia được xác định là Chủ tịch nước, là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Về cơ bản, Hiến pháp năm 2013 kế thừa Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) khi quy định về vị trí pháp lý, vai trò của Chủ tịch nước. Tuy nhiên, những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn Chủ tịch nước và mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với đơn vị thực hiện quyền hành pháp có một số thay đổi.

Hiến pháp năm 2013 xác định Chính phủ là đơn vị thực hiện quyền hành pháp. Đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng Chính phủ. Trong mối quan hệ với Chính phủ, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa cách thức thiết lập Chính phủ và thẩm quyền giám sát của Chủ tịch nước đối với Chính phủ như trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001).

Căn cứ, Chủ tịch nước có quyền “đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ”; “căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ”. Vì vậy, chế định Chủ tịch nước và chế định Chính phủ được hiến định là hai chế định độc lập. Chủ tịch nước không nắm quyền điều hành Chính phủ mà chỉ tham gia vào việc thành lập Chính phủ. Do đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ không chịu trách nhiệm trước Chủ tịch nước và chỉ có trách nhiệm báo cáo công tác trước Chủ tịch nước. Việc báo cáo công tác trước Chủ tịch nước là một hoạt động thể hiện quyền giám sát của Chủ tịch nước đối với hoạt động của Chính phủ.

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Chủ tịch nước “có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ và có quyền yêu cầu Chính phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước”. Quy định này là một bước tiến trong tư duy lập pháp ở nước ta nhằm tăng cường vai trò giám sát của nguyên thủ quốc gia đối với hoạt động của đơn vị hành pháp, khi Chủ tịch nước có quyền “yêu cầu” Chính phủ họp bàn về vấn đề mà Chủ tịch nước xét thấy cần thiết để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước. Quy định cũng khẳng định vai trò điều phối hoạt động, đảm bảo sự phân công và kiểm soát đối với hoạt động của các đơn vị trong bộ máy nhà nước, trong đó có Chính phủ – đơn vị thực hiện quyền hành pháp.

Tuy nhiên, với những quy định như vậy, sự tham dự và vai trò của Chủ tịch nước với các phiên họp của Chính phủ mang tính dự thính, Chủ tịch nước chỉ tham dự phiên họp Chính phủ như khách mời và rất bị động. Quy định như vậy, một mặt không tương xứng với vai trò của Chủ tịch nước. Mặt khác, Chủ tịch nước không có thẩm quyền tác động có hiệu quả vào hoạt động của Chính phủ nhằm thực hiện vai trò kiểm soát quyền lực của mình. Quyền tham dự phiên họp của nguyên thủ quốc gia trong Hiến pháp năm 2013 không có ý nghĩa hoạch định và thực thi chính sách mà thực chất chỉ là quyền mang tính chất giám sát hành pháp mà thôi.

Vì vậy, có thể thấy, những nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước thể hiện mối quan hệ giữa chế định này với Chính phủ – đơn vị hành pháp được quy định trong Hiến pháp năm 2013 vẫn rất hạn chế. Điều này có thể ảnh hưởng đến vai trò của Chủ tịch nước trong việc điều phối, kiểm soát hoạt động của các đơn vị thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp nói chung và đặc biệt là hoạt động của Chính phủ nói riêng.

Hy vọng nội dung trình bày trên đã gửi tới những thoogn tin chi tiết và cụ thể về chế định nguyên thủ quốc gia trong hiến pháp 2013. Hãy liên hệ Công ty Luật LVN Group để được tư vấn và hỗ trợ nếu có những câu hỏi liên quan đến chế định nguyên thủ quốc gia trong hiến pháp 2013 bạn !.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com