Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định rõ ràng về chuyển giao quyền yêu cầu. Vậy, chuyển giao quyền yêu cầu là gì? Điều kiện chuyển giao thế nào?,… Để trả lời vấn đề này, Luật LVN Group xin gửi đến quý bạn đọc nội dung trình bày: “Chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ dân sự”.
1. Chuyển giao quyền yêu cầu là gì ?
Chuyển giao quyền yêu cầu là sự thỏa thuận giữa người có quyền trong quan hệ nghĩa vụ dân sự với người thứ ba nhằm chuyển giao quyền yêu cầu cho người thứ ba đó. Người thứ ba được gọi là người thế quyền, là người có quyền mới, có quyền yêu cầu bên có nv thực hiện nv cho mình. Thực chất, chuyển giao quyền yêu cầu là một hợp đồng bởi việc chuyển giao quyền yêu cầu phải được sự thỏa thuận và thống nhất ý chí của bên chuyển giao và bên nhận chuyển giao. Ví dụ: Mua bán hoặc tặng cho quyền đòi nợ….
2. Điều kiện chuyển giao quyền yêu cầu
Thứ nhất,quyền yêu cầu phải là quyền yêu cầu có hiệu lực về mặt pháp lý có thể chuyển giao, không thuộc các trường hợp pháp luật không cho phép chuyển giao:
+ Quyền yêu cầu cấp dưỡng, BTTH do xâm phạm tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín.
+ Bên có quyền và bên có nghĩa vụ có thỏa thuận không được chuyển giao quyền
+ Những trường hợp mà pháp luật có quy định không được chuyển giao quyền yêu cầu.
Thứ hai, khi thực hiện chuyển giao quyền yêu cầu, bên có quyền phải thông báo cho bên có nghĩa vụ được biết. Mặc dù nguyên tắc thì không cần có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ tuy nhiên bên có quyền phải thông báo cho bên có nghĩa vụ bằng văn bản về việc chuyển giao quyền yêu cầu.
Thứ ba, người chuyển giao quyền yêu cầu phải gửi tới thông tin cần thiết. chuyển giao giấy tờ có liên quan cho người thế quyền, nếu không thực hiện mà xảy ra tổn hại thì người chuyển giao quyền yêu cầu phải bồi thường tổn hại.
Thứ tư, trong trường hợp chuyển giao quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm thì biện pháp bảo đảm cũng được chuyển giao.
Hậu quả pháp lý: Việc chuyển giao quyền yêu cầu là người thứ 3 thay thế có quyền trước tham gia vào một quan hệ nghĩa vụ dân sự hoàn toàn với tư cách là một chủ thể. Người đã chuyển quyền yêu cầu thì chấm dứt quan hệ vn với người có nv. Do đó, người chuyển giao quyền yêu cầu hoàn toàn không phải chịu trách nhiệm về khả năng thực hiện nghĩa vụ của người có nghĩa vụ (trừ trường hợp có thỏa thuận)
Nếu người có nghĩa vụ thực hiện không đúng, không trọn vẹn nv dân sự, thì ng thế quyền với tư cách là người có quyền mới, được thực hiện quyền yêu cầu của mình theo hướng dẫn của pháp luật. Nếu bên chuyển giao quyền yêu cầu mà không thông báo về việc chuyển giao quyền yêu cầu mà phát sinh chi phí cho bên có vn thì bên chuyển giao quyền phải thanh toán chi phí.
3. Việc chuyển giao quyền có cần sự đồng ý của bên có nghĩa vụ không?
Việc chuyển giao quyền yêu cầu không ảnh hưởng đến lợi ích của bên có nghĩa vụ bởi lẽ khi thực hiện nghĩa vụ với bất kỳ ai nhận chuyển giao quyền thì người này vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đó. Chính vì vậy, pháp luật cho phép việc chuyển giao quyền yêu cầu không cần có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ. Căn cứ khoản 2 Điều 365 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
Khi bên có quyền yêu cầu chuyển giao quyền yêu cầu cho người thế quyền thì người thế quyền trở thành bên có quyền yêu cầu. Việc chuyển giao quyền yêu cầu không cần có sự đồng ý của bên có nghĩa vụ.
Người chuyển giao quyền yêu cầu phải thông báo bằng văn bản cho bên có nghĩa vụ biết về việc chuyển giao quyền yêu cầu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trường hợp bên chuyển giao quyền yêu cầu không thông báo về việc chuyển giao quyền mà phát sinh chi phí cho bên có nghĩa vụ thì bên chuyển giao quyền yêu cầu phải thanh toán chi phí này.
Quy định này cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các bên trong việc thực hiện quyền dân sự của mình một cách nhanh chóng và hiệu quả.
Về thủ tục, khi chuyển giao quyền yêu cầu, pháp luật quy định người chuyển giao quyền yêu cầu phải thông báo bằng văn bản cho bên có nghĩa vụ biết về việc chuyển giao quyền yêu cầu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Trong trường hợp bên chuyển giao quyền yêu cầu không thông báo về việc chuyển giao quyền mà phát sinh chi phí cho bên có nghĩa vụ do việc không thông báo gây ra thì bên chuyển giao quyền yêu cầu phải thanh toán chi phí này. Tuy nhiên, kể cả trường hợp các bên đã thông báo nhưng do việc chuyển quyền mà phát sinh chi phí tăng lên đối với bên có nghĩa vụ thì cũng phát sinh nghĩa vụ thanh toán của bên chuyển quyền đối với bên có nghĩa vụ. Ví dụ: Do địa điểm của bên thế quyền xa hơn làm phát sinh chi phí vận chuyển đối với bên có nghĩa vụ.
4. Chuyển giao quyền yêu cầu có biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ
Điều 368 Bộ luật dân sự 2015 có quy định:
“Điều 368. Chuyển giao quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
Trường hợp quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm thì việc chuyển giao quyền yêu cầu bao gồm cả biện pháp bảo đảm đó”.
Biện pháp bảo đảm được hiểu là biện pháp do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định mà theo đó bên bảo đảm dùng tài sản hoặc công việc mình có khả năng thực hiện được để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Biện pháp bảo đảm theo Bộ luật dân sự năm 2015 bao gồm: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản; đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lưu quyền sở hữu, bảo lãnh, tín chấp; cầm giữ tài sản. Chuyển giao quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm kèm theo như: Chuyển giao quyền đòi nợ trong hợp đồng vay có bảo đảm bằng thế chấp; chuyển giao quyền yêu cầu giao tiền trong hợp đồng mua bán có bảo đảm bằng đặt cọc…
Điều luật có quy định về hậu quả pháp lý của việc chuyển giao quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm kèm theo. Theo quy định tại điều luật thì khi quyền yêu cầu có biện pháp bảo đảm được chuyển giao thì biện pháp bảo đảm đương nhiên được chuyển giao theo mà không cần có sự thỏa thuận của các bên. Quy định này xuất phát từ bản chất của biện pháp bảo đảm là bảo đảm cho nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ được thực hiện đúng. Hơn nữa, khi chuyển giao quyền yêu cầu thì bên có nghĩa vụ không thay đổi và với ai thì người mang nghĩa vụ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đó. Chính vì vậy, pháp luật quy định như vậy để đảm bảo sự thuận lợi trong thực hiện nghĩa vụ cũng như bảo đảm được quyền lợi cho bên được chuyển giao quyền yêu cầu mà không làm ảnh hưởng đến lợi ích của bên phải thực hiện nghĩa vụ.
5. Nghĩa vụ của bên chuyển giao quyền yêu cầu
Theo Điều 366 Bộ luật dân sự 2015 thì người chuyển giao quyền yêu cầu phải gửi tới thông tin cần thiết, chuyển giao giấy tờ có liên quan cho người thế quyền. Người chuyển giao quyền yêu cầu vi phạm nghĩa vụ này mà gây tổn hại thì phải bồi thường tổn hại. Trong chuyển giao quyền yêu cầu, việc gửi tới thông tin là rất cần thiết. Có được thông tin sẽ giúp cho bên thế quyền đánh giá được chính xác việc có tiếp nhận việc chuyển giao quyền yêu cầu được không, đồng thời thông tin cũng giúp bên thế quyền đánh giá mức độ thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ… Chính vì vậy, bên chuyển quyền phải có nghĩa vụ gửi tới thông tin cần thiết cho bên được chuyển quyền. Trong quan hệ nghĩa vụ thì những thông tin gì được coi là cần thiết có thể là những thông tin có liên quan và ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ cũng như bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ như đối tượng, giá cả, địa điểm, thời hạn, biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ…
Bên cạnh đó, bên chuyển quyền cũng phải có nghĩa vụ chuyển giao giấy tờ có liên quan cho người thế quyền. Giấy tờ có liên quan có thể bao gồm tất cả các loại giấy tờ bên chuyển quyền có được từ mối quan hệ với bên có nghĩa vụ như hợp đồng chính, hợp đồng bảo đảm, chứng minh thư, sổ hộ khẩu, hóa đơn, chứng từ…Đây là một nghĩa vụ pháp lý nói chung và là một nghĩa vụ dân sự nói riêng cho nên nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không trọn vẹn một trong những nội dung trên thì bị coi là vi phạm nghĩa vụ dân sự và phải gánh chịu trách nhiệm dân sự. Trách nhiệm dân sự có thể là buộc phải thực hiện nghĩa vụ hoặc bồi thường tổn hại. Bên thế quyền hoàn toàn có quyền yêu cầu bên chuyển quyền gửi tới thêm thông tin hoặc chuyển giao giấy tờ do bên chuyển quyền chưa thực hiện. Trong trường hợp bên chuyển quyền không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không trọn vẹn nghĩa vụ trên mà gây tổn hại cho bên thế quyền thì phải bồi thường tổn hại cho bên thế quyền theo hướng dẫn của pháp luật về trách nhiệm bồi thường tổn hại.
Khi chuyển giao quyền yêu cầu thì bên chuyển quyền đã hoàn toàn chấm dứt quyền của mình đối với bên có nghĩa vụ. Người thế quyền trở thành người có quyền mới và có toàn quyền yêu cầu đối với bên có nghĩa vụ. Chính vì vậy, nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện được nghĩa vụ đối với bên thế quyền thì người chuyển giao quyền yêu cầu cũng không phải chịu trách nhiệm gì. Hay nói cách khác, sau khi thực hiện xong việc chuyển quyền, người chuyển giao quyền yêu cầu không còn liên quan và không có quyền, nghĩa vụ gì trong mối quan hệ với người thể quyền và không phải chịu bất kỳ trách nhiệm gì nếu người có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đối với người có quyền.
6. Dịch vụ tư vấn luật LVN Group
Trên đây là thông tin về Chuyển giao quyền yêu cầu trong quan hệ dân sựmà Công ty Luật LVN Group gửi đến quý bạn đọc tham khảo. Nếu cần cung cấp thêm thông tin chi tiết quy định về dân sự, quý khách vui lòng truy cập trang web: https://lvngroup.vn để được trao đổi cụ thể.