ĐẦU THÚ LÀ GÌ THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015? [CẬP NHẬT 2023] - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - ĐẦU THÚ LÀ GÌ THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015? [CẬP NHẬT 2023]

ĐẦU THÚ LÀ GÌ THEO BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015? [CẬP NHẬT 2023]

Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 (BLTTHS 2015) ra đời đã có nhiều đổi mới, lần đầu tiên, bộ luật này đã quy định cụ thể về tình tiết “đầu thú” để trên cơ sở đó có căn cứ áp dụng những nội dung có lợi hơn cho người phạm tội. Vậy thì theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định thì Đầu thú là gì? Để nghiên cứu thêm về vấn đề này, mời các bạn cùng đọc nội dung trình bày dưới đây. 

1.Đầu thú là gì theo Bộ luật Hình sự 2015?

Khái niệm :

Theo Điểm i khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 quy định thì Hành vi sau khi bị phát hiện, người phạm tội đã tự nguyện ra trình diện và khai báo với đơn vị có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình thì đó được xem là đầu thú. 

Khác với đầu thú, tự thú là việc người phạm tội tự nguyện khai báo với đơn vị, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện.( điểm h Khoản 1 Điều 4 BLTTHS 2015).

Hai khái niệm này khá tương đồng nên rất dễ gây nhầm lẫn cho người đọc, nhưng nhìn chung chúng ta có thể thấy đầu thú và tự thú là những hành động của người phạm tội đến đơn vị nhà nước có thẩm quyền để trình báo về hành vi phạm tội do mình gây ra và nhận sự khoan hồng của pháp luật, có thể nói đây là những cách thức thể hiện sự nhân đạo của pháp luật Việt Nam.

2.Phân biệt đầu thú và tự thú

Để nghiên cứu kỹ hơn về khái niệm này, trước hết ta phải phân biệt được hai khái niệm này giống và khác nhau ở điểm nào.

*Giống nhau:

Đầu thú và tự thú đều là hành vi của người phạm tội tự mình đến trình diện và khai báo tại đơn vị có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình. 

*Khác nhau: 

Đặc điểm nổi bật (thời gian)

+Tự thú:Nhận tội khi chưa ai biết mình phạm tội hoặc đã có người biết hành vi phạm tội nhưng chưa xác định được chủ thể thực hiện hành vi.

+Đầu thú: Đã có người biết mình thực hiện hành vi phạm tội

-Giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

+ Tự thú: Được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

+Đầu thú: Không được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tuy nhiên trong quá trình điều tra, xét xử việc xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự sẽ tùy thuộc vào quyết định của Tòa án và tùy thuộc vào thái độ sau đó của người đầu thú (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, lập công chuộc tội…). Việc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải được ghi rõ trong bản án

-Việc miễn trách nhiệm hình sự

+Tự thú:Có thể được miễn trách nhiệm hình sự nếu Trước khi hành vi phạm tội bị phát giác người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận

+Đầu thú: Không được miễn trách nhiệm hình sự

Từ những lý lẽ trên ta thấy,Theo quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 thì người phạm tội có hành vi đầu thú sẽ được hưởng khoan hồng qua nguyên tắc xử lý tội phạm.  Khi quyết định hình phạt, tòa án căn cứ quy định của bộ luật này để cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Việc người phạm tội được hưởng khoan hồng từ  chính sách Nhà nước thể hiện được sự nhân đạo, văn minh trong tố tụng hình sự, mặc dù những chính sách khoan hồng sẽ thấp hơn so với tự thú. 

3.Những quan điểm trái chiều của đầu thú và tự thú

Về trường hợp này, hiện có hai quan điểm như sau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng, cần áp dụng chính xác quy định tại Công văn 81. Theo đó, hai trường hợp này về cơ bản chỉ khác nhau ở chỗ: tự thú là chưa ai biết mình phạm tội, còn đầu thú là đã có người biết mình phạm tội. Nghĩa là, khi hành vi phạm tội của người phạm tội chưa bị phát hiện bởi bất kỳ ai mà họ trình diện và tự khai nhận thì mới được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ “tự thú”. Những trường hợp còn lại, khi người phạm tội đến đơn vị có thẩm quyền trình diện, chỉ được xem xét áp dụng tình tiết “đầu thú”. Tính đến thời gian hiện tại, việc áp dụng như vậy cũng hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 4 BLTTHS 2015.

Quan điểm thứ hai cho rằng cần áp dụng linh động hơn tinh thần của Công văn 81. Vì nếu theo quan điểm thứ nhất, sẽ có những trường hợp còn bất cập, thiếu thống nhất trong thực tiễn hiểu và áp dụng như sau:

Thứ nhất, Công văn 81 quy định song song hai điều kiện “có người đã biết mình phạm tội” và “biết không thể trốn tránh được nên đến đơn vị có thẩm quyền trình diện” để đánh giá là người phạm tội “đầu thú”. Vì vậy, nếu sau khi bị phát hiện, người phạm tội có đủ điều kiện để trốn tránh được nhưng đã không trốn tránh mà đến đơn vị trình diện và thành khẩn khai rõ sự việc thì đánh giá thế nào? Trường hợp này, người phạm tội biết mình đã bị phát hiện nên không thể là “tự thú” nhưng lại không đủ điều kiện “biết không thể trốn tránh được nên đến đơn vị có thẩm quyền trình diện” của tình tiết “đầu thú” như hướng dẫn tại Công văn 81.

Thứ hai, việc “bị phát hiện” đôi khi nằm ngoài ý thức chủ quan của người phạm tội. Bản thân họ có thể không nhận biết được hành vi phạm tội của mình đã bị phát hiện bởi ai khác chưa. Có trường hợp người phạm tội tin chắc chắn rằng người khác không thể biết việc mình phạm tội, có đủ điều kiện để bỏ trốn nhưng đã ra đơn vị có thẩm quyền trình diện và khai báo. Nhưng khi trình diện thì sự việc đã bị người khác tình cờ chứng kiến hoặc phát hiện và trình báo đơn vị có thẩm quyền từ trước nên theo hướng dẫn trên, họ cũng không được đánh giá là “tự thú”.

Thứ ba, nên chăng đặt ra vấn đề “thế nào là phát hiện được người phạm tội” và “ai là người phát hiện” để xem xét áp dụng tình tiết “tự thú”, “đầu thú”. Có quan điểm cho rằng “phát hiện được người phạm tội” chỉ cần là người khác nhìn thấy con người cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể nhưng quan điểm thứ hại lại nhận định trường hợp này phải là biết rõ lai lịch, địa chỉ của người phạm tội. Về vấn đề “ai là người phát hiện”, theo luồng ý kiến thứ nhất, người phát hiện ra sự việc phạm tội và người phạm tội có thể là bất kỳ ai nhưng theo luồng ý kiến thứ hai, pháp luật chỉ quy định là “người phát hiện” chứ không phải “người biết sự việc” nên cần loại trừ đồng phạm hoặc những đối tượng khác cùng tham gia vụ án.

Trên thực tiễn, Công văn 81 vẫn đang có hiệu lực thi hành và cần phải được tuân thủ nghiêm để áp dụng tình tiết giảm nhẹ tự thú, đầu thú.

4. Một số câu hỏi liên quan thường gặp

-Ý nghĩa của việc người phạm tội tự thú, đầu thú là gì?

Pháp luật hình sự có quy định về tự thú theo đó có thể thấy tự thú thể hiện chính sách khoan hồng nhất cửa hàng của Nhà nước ta, thể hiện truyền thống nhân đạo của dân tộc ta đối với những người lầm lỗi mà chịu ăn năn hối cải. Thành tâm tự thú là một hành vi tích cực và là biểu hiện của sự ăn năn muốn hối cải của người đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi phạm pháp.

-Cơ quan có thẩm quyền giải quyết là đơn vị nào?

  • Sau khi tiếp nhận người phạm tội  đầu thú, đơn vị, tổ chức phải thông báo ngay cho Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát.
  • Cơ quan điều tra tiếp nhận người đầu thú phải kiểm tra xem tội phạm đầu thú có thuộc thẩm quyền điều tra của mình được không. Nếu thuộc thẩm quyền điều tra của mình thì phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 24 giờ, việc thông báo phải bằng văn bản. Trong trường hợp xác định tội phạm tự thú, đầu thú không thuộc thẩm quyền điều tra của mình thì Cơ quan điều tra tiếp nhận đầu thú phải thông báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền đề tiếp nhận, giải quyết.

-Người phạm tội là gì?
Người phạm tội là người có đủ dấu hiệu chủ thể của tội phạm và đã thực hiện hành vi được luật hình sự quy định là tội phạm. Người phạm tội có thể là phạm tội riêng lẻ hoặc là người phạm tội trong đồng phạm…..

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com