Trong một số trường hợp vợ chồng có mong muốn lập di chúc chung để thuận tiện trong việc chia tài sản cho con. Vì vậy, về vấn đề di chúc chung của vợ chồng được pháp luật quy định thế nào?
Di chúc chung vợ chồng khi nào thì có hiệu lực?
1.Di chúc là gì?
Theo Điều 624 Bộ luật Dân sự năm 2015, di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết, thể hiện quyền định đoạt tài sản thừa kế của người để lại di sản thừa kế thuộc quyền sở hữu của mình cho những người khác được chỉ định theo ý chí của người để lại di sản trong di chúc.
Về nguyên tắc, chủ sở hữu tài sản hợp pháp có quyền định đoạt tài sản đó, bao gồm lập di chúc để lại cho người khác.
2.Di chúc chung của vợ chồng
2.1.Những bất cập
Việc thừa nhận di chúc chung vợ chồng xuất phát từ tính ưu việt của nó trong việc duy trì tính thống nhất trong khối tài sản chung, thông qua quy định về thời gian có hiệu lực của di chúc bắt đầu kể từ khi “bên sau cùng chết hoặc tại thời gian hai vợ chồng cùng chết”. Theo đó, trong thời gian này, người còn sống được bảo vệ khá tốt trong khối tài sản chung cho đến khi họ qua đời, tránh tình trạng cuộc sống của người còn lại bị gián đoạn.
Tuy nhiên, trong quá trình thực thi pháp luật cũng như thực tiễn xét xử tại TAND các cấp về vấn đề di chúc chung vợ chồng lại phát sinh nhiều bất cập. Có thể kể đến như thời gian có hiệu lực của di chúc chung vợ chồng đã làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người còn sống, như trong trường hợp người còn sống gặp khó khăn, bệnh tật nhưng họ không thể chuyển nhượng phần tài sản của mình trong khối tài sản chung của vợ chồng.
Thêm vào đó, thực tiễn đã có những câu hỏi xoay quanh trường hợp trong thời gian người vợ/chồng còn sống đã sử dụng di sản chưa phân chia vào sản xuất kinh doanh, thu được những lợi nhuận thì lợi nhuận phát sinh này được xem là di sản thừa kế hay thuộc quyền sở hữu của người vợ/chồng còn sống đó? Không những vậy, quy định về di chúc chung vợ chồng còn làm ảnh hưởng đến quyền lợi của những người thừa kế của bên chết trước vì họ cũng phải chờ đến thời gian di chúc chung có hiệu lực thì mới được phân chia di sản. Hơn nữa, điều này thực tiễn còn ảnh hưởng khá nặng nề đến lợi ích của các chủ nợ, đặc biệt là các ngân hàng; bởi lẽ, theo hướng dẫn, các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán trước khi chia di sản theo những thứ tự ưu tiên. Vấn đề được đặt ra là, người chồng/vợ chết trước có nghĩa vụ về tài sản với người khác do có hành vi gây tổn hại, do vay tài sản… thì quyền tài sản của các chủ nợ đó được giải quyết thế nào, khi mà những người thừa kế chưa được hưởng di sản? Người chồng/vợ còn sống có nghĩa vụ thanh toán cho các chủ nợ từ tài sản của người chết để lại với tư cách là người thừa kế hay là người được uỷ nhiệm, pháp luật thời bấy giờ vẫn không quy định cụ thể.
Bên cạnh đó, việc tồn tại di chúc chung vợ chồng còn phát sinh nhiều vướng mắc trong quy định về thời hiệu thừa kế, khi trong một số trường hợp, khi người còn lại chết thì thời hiệu khởi kiện đối với di sản của người chết trước cũng đã hết.
2.2. Quy định của pháp luật
Xuất phát từ những bất cập phát sinh từ di chúc chung của vợ chồng, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã bãi bỏ quy định về di chúc chung vợ chồng. Tuy nhiên, pháp luật không cấm việc lập di chúc chung vợ chồng. Mặt khác, nhiều bản di chúc chung của vợ chồng được lập trong thời kỳ Bộ luật Dân sự năm 1995, Bộ luật Dân sự năm 2005 có hiệu lực pháp luật vẫn đang tồn tại.
Pháp luật dân sự các thời kỳ trước cũng quy định không giống nhau về hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng.
Theo quy định tại Điều 671 Bộ luật Dân sự năm 1995 thì trong trường hợp vợ, chồng lập di chúc chung mà có một người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật; nếu vợ, chồng có thỏa thuận trong di chúc về thời gian có hiệu lực của di chúc là thời gian người sau cùng chết, thì di sản của vợ, chồng theo di chúc chung chỉ được phân chia từ thời gian đó.
Tại Điều 663 Bộ luật Dân sự năm 2005 có quy định “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”. Theo đó, di chúc chung của vợ chồng được thiết lập trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ tài sản dựa trên sở hữu chung hợp nhất đối với tài sản của vợ chồng. Đây là sự thoả thuận của các bên không nhằm làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ của bên kia mà nhằm thống nhất ý chí chung của hai bên vợ, chồng trong việc định đoạt tài sản chung cho bên thứ ba và phân định tài sản cho người thừa kế cũng như việc thực hiện các quyền khác của người lập di chúc. Tuy nhiên, muốn sửa đổi di chúc chung cần có sự đồng ý của hai bên, nếu không một bên sửa đổi thì chỉ có quyền sửa đổi phần tài sản thuộc sở hữu của mình.
Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2005 lại có quy định: Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời gian người sau cùng chết hoặc tại thời gian vợ, chồng cùng chết.
Vì vậy, liên quan đến thời gian có hiệu lực đối với di chúc chung của vợ chồng trước tiên phải xác định di chúc chung đó được lập tại thời gian Bộ luật Dân sự nào đang có hiệu lực pháp luật? Trường hợp di chúc được lập tại thời gian Bộ luật Dân sự năm 1995 có hiệu lực thi hành thì cần phải xem kỹ nội dung di chúc, nếu di chúc không có nội dung thỏa thuận về thời gian có hiệu lực của di chúc là thời gian người sau cùng chết, thì phần di chúc liên quan đến phần di sản của người chết trong tài sản chung có hiệu lực pháp luật, tức là phần di chúc của người chết trước có hiệu lực pháp luật. Trường hợp này thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế đối với khối di sản của người chết trước được tính từ ngày người này chết (ngày mở thừa kế).
Ngược lại, nếu trong di chúc có thỏa thuận về thời gian có hiệu lực của di chúc là thời gian người sau cùng chết, thì di chúc chung có hiệu lực từ thời gian người sau cùng chết. Trường hợp này thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế phải tính từ ngày người sau cùng chết.
Trường hợp di chúc chung của vợ chồng được lập tại thời gian Bộ luật Dân sự năm 2005 có hiệu lực thi hành thì di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời gian người sau cùng chết hoặc tại thời gian vợ, chồng cùng chết. Tương tự như trên, trường hợp này thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế cũng được tính từ ngày người sau cùng chết.
Cũng cần lưu ý thêm, Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định về trường hợp di chúc chung của vợ chồng, nhưng cũng không có quy định nào cấm việc vợ chồng lập di chúc chung. Trường hợp vợ chồng vẫn lập di chúc chung trong thời gian Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành thì cần căn cứ vào nội dung của di chúc và các quy định của pháp luật về di chúc hợp pháp để xem xét, đánh giá khi giải quyết.
Việc nghiên cứu quy định về di chúc chung của vợ chồng sẽ giúp ích cho các chủ thể có ý định tạo lập di chúc chung, đây cũng là một vấn đề còn nhiều bất cập trong các quy định của pháp luật dân sự hiện nay.
Trên đây là toàn bộ nội dung giới thiệu của LVN Group về Di chúc chung vợ chồng khi nào thì có hiệu lực? gửi đến quý bạn đọc để cân nhắc. Trong quá trình nghiên cứu nếu như quý bạn đọc còn câu hỏi cần trả lời, quý bạn đọc vui lòng liên hệ với LVN Group để được hướng dẫn nhanh chóng và cụ thể !!