Để thu thập chứng cứ nhằm giải quyết vụ án hình sự hay để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự thì phải phụ thuộc vào những thứ thu thập được từ hoạt động khám nghiệm hiện trường của Điều tra viên. Đó là một nguồn thu thập chứng cứ cần thiết vì hiện trường là nơi xảy ra vụ việc do đó có thể phát hiện ra vật chứng, tài liệu, đồ vật… có tính quyết định cần thiết đến việc làm sáng tỏ các tình tiết vụ án để từ đó làm căn cứ để xác định xem một hành vi có phải là hành vi phạm tội được không. Điều 150 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định về khám nghiệm hiện trường. Nội dung quy định có giới thiệu về chủ thể có quyền tiến hành hoạt động khám nghiệm hiện trường, thủ tục khám nghiệm hiện trường và các vấn đề pháp luật có liên quan khác. Để nghiên cứu xem nội dung đó được quy định thế nào trong điều luật, hãy theo dõi nội dung trình bày dưới đây của LVN Group để trả lời câu hỏi.
1. Khám nghiệm hiện trường là gì?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 150 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì khám nghiệm hiện trường là biện pháp điều tra được tiến hành tại nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm nhằm phát hiện dấu vết của tội phạm, thu giữ vật chứng, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử khác liên quan và làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án.
Hiện trường trong tố tụng hình sự được hiểu là nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm. Hiện trường chứa đựng nhiều thông tin về tội phạm đã xảy ra, nhiều khi nguồn tin từ hiện trường là nguồn tin duy nhất về tội phạm. Do đó, khám nghiệm hiện trường là biện pháp điều tra cần thiết, được Bộ luật Tố tụng hình sự quy định.
Khám nghiệm hiện trường là hoạt động điều tra vừa đòi hỏi tính chiến thuật cao, vừa đòi hỏi sự hỗ trợ của phương tiện kĩ thuật hình sự. Kết quả của hoạt động khám nghiệm hiện trường có ý nghĩa lớn đối với hoạt động điều tra, giải quyết vụ án sau này. Nên tiến hành biện pháp điều tra này, cần áp dụng các phương tiện kỹ thuật hình sự phù hợp để phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản, nghiên cứu, đánh giá các loại dấu vết vật chứng của các vụ phạm tội hoặc vụ việc có tính hình sự để lại tại hiện trường.
2. Chủ thể tiến hành việc khám nghiệm hiện trường.
Căn cứ theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 150 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì chủ thể tiến hành việc khám nghiệm hiện trường là Điều tra viên.
Việc quy định thẩm quyền tiến hành khám nghiệm hiện trường cho đơn vị điều tra là hoàn toàn phù hợp với bản chất nhiệm vụ đơn vị này. Hoạt động điều tra là hoạt động củng cố, điều tra và thu thập chứng cứ nhằm tìm ra sự thật khách quan nhất trong việc phòng chống tội phạm. Điều tra viên là người nắm rõ hồ sơ, giấy tờ trực tiếp của vụ án cho nên việc quy định này là hoàn toàn phù hợp.
3. Thủ tục khám nghiệm hiện trường.
Căn cứ theo hướng dẫn tại khoản 2 và khoản 3 Điều 150 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 thì thủ tục khám nghiệm hiện trường cụ thể là:
– Điều tra viên tiến hành khám nghiệm nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm nhằm phát hiện dấu vết của tội phạm, vật chứng và làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án.
– Khám nghiệm hiện trường có thể tiến hành trước khi khởi tố vụ án hình sự. Trong mọi trường hợp, trước khi tiến hành khám nghiệm, Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết. Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường. Khi khám nghiệm, phải có người chứng kiến; có thể để cho bị can, người bị hại, người làm chứng và mời nhà chuyên môn tham dự việc khám nghiệm.
Khám nghiệm hiện trường thường được tiến hành trước khi khởi tố vụ án hình sự bị kết quả của kháng nghiệm hiện trường giúp ích rất nhiều cho đơn vị có thẩm quyền trong hoạt động ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Để kịp thời phát hiện và thu giữ dấu vết của tội phạm, vật chứng cũng như làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa của vụ án, việc khám nghiệm hiện trường có thể được tiến hành trước khi khởi tố vụ án. Trước khi tiến hành khám nghiệm, Điều tra viên phải báo cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp biết. Tùy từng trường hợp, Kiểm sát viên phải có mặt để kiểm sát việc khám nghiệm.
– Khi khám nghiệm hiện trường, Điều tra viên tiến hành chụp ảnh, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, đo đạc, dựng mô hình, thu lượm và xem xét tại chỗ dấu vết của tội phạm, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án; ghi rõ kết quả xem xét vào biên bản khám nghiệm hiện trường.
Mặt khác, khám nghiệm hiện trường được tiến hành qua hai bước là quan sát và khám nghiệm tỉ mi.
Đối tượng của việc quan sát gồm: trạng thái, quang cảnh của hiện trường; các dấu vết, vật chứng ở hiện trường; tử thi (nếu có người chết). Điều tra viên tiến hành quan sát để xác định phạm vi của hiện trường, nơi có dấu vết, vật chứng; lối vào, lối ra của thủ phạm trên hiện trường; phương thức, thủ đoạn, công cụ và phương tiện phạm tội; nơi cần tập trung khám nghiệm. Khi quan sát hiện trường, Điều tra viên tiến hành chụp ảnh toàn cảnh, ảnh định hướng, phác họa sơ đồ hiện trường để ghi nhận lại vị trí, trạng thái ban đầu của hiện trường.
Khi khám nghiệm tỉ mỉ, Điều tra viên sử dụng các phương pháp, phương tiện phù hợp để phát hiện, thu lượm và xem xét tại chỗ dấu vết của tội phạm, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án. Tất cả công việc khám nghiệm và kết quả xem xét được ghi vào biên bản khám nghiệm hiện trường. Trong trường hợp không thể xem xét ngay được thì đồ vật và tài liệu thu giữ được bảo quản, giữ nguyên trạng hoặc niêm phong đưa về nơi tiến hành điều tra.
– Trong trường hợp không thể xem xét ngay được thì đồ vật và tài liệu thu giữ phải được bảo quản, giữ nguyên trạng hoặc niêm phong đưa về nơi tiến hành điều tra.
Trên đây là toàn bộ nội dung nội dung trình bày giới thiệu về khám nghiệm hiện trường quy định tại Điều 150 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Nội dung nội dung trình bày có giới thiệu về khái niệm của khám nghiệm hiện trường, chủ thể có quyền tiến hành hoạt động khám nghiệm hiện trường, thủ tục khám nghiệm hiện trường và các vấn đề pháp luật có liên quan khác. Nếu trong quá trình nghiên cứu, quý bạn đọc còn có vấn đề câu hỏi cần được trả lời hay có nhu cầu quan tâm đến các dịch vụ tư vấn do LVN Group gửi tới, vui lòng truy cập địa chỉ trang web say đây: https://lvngroup.vn/ để được tư vấn trả lời câu hỏi một cách chi tiết nhất.