Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015 ra đời có thêm một chế định mới về Chiếm hữu được quy định tại Chương XII. Đây là một bước tiến của pháp luật dân sự Việt Nam khi thừa nhận một loại quan hệ pháp luật mới thông qua đối tượng là trạng thái của tài sản, bên cạnh hệ thống quy định về vật quyền từ trước đến nay. Cũng từ đó chiếm hữu có căn cứ pháp luật và chiếm hữu không có căn cứ pháp luật được tìm kiếm, tra cứu nhiều trên các hệ thống, diễn đàn. Bài Phân tích Điều 165 Bộ luật dân sự 2015 dưới đây sẽ giúp quý bạn đọc có cái nhìn cụ thể, chi tiết hơn về vấn đề này.
Điều 165 Bộ luật dân sự 2015
1. Chiếm hữu là gì?
Có thể thấy rằng, bên cạnh chiếm hữu dưới dạng quyền năng của chủ sở hữu hoặc người được chủ sở hữu uỷ quyền, tồn tại một trạng thái thực tiễn đồ vật bị chiếm giữ, tình trạng này được định danh là tình trạng chiếm hữu
Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản (Khoản 1 Điều 179 BLDS 2015) Có thể hiểu: Chiếm hữu là sự làm chủ trong thực tiễn của một chủ thể luật đối với một vật, không phụ thuộc vật đó có thuộc sở hữu của người chiếm hữu được không.
Theo đó, bản chất của chiếm hữu là việc nắm giữ, chi phối tài sản. Sự nắm giữ, chi phối ở đây được hiểu là những hoạt động cụ thể của chủ thể đối với tài sản, diễn ra bình thường trong đời sống, thể hiện ở việc cầm nắm, giữ gìn, trông coi, quản lý, kiểm soát thực tiễn ..
– Người chiếm hữu tài sản được pháp luật bảo vệ quyền năng của mình và nếu như việc chiếm hữu bị người khác xâm phạm thì người chiếm hữu tài sản có quyền yêu cầu người có hành vi xâm phạm phải chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường tổn hại hoặc yêu cầu Tòa án, đơn vị nhà nước có thẩm quyền khác buộc người đó chấm dứt hành vi, khôi phục tình trạng ban đầu, trả lại tài sản và bồi thường tổn hại.
Chiếm hữu bao gồm chiếm hữu của chủ sở hữu và chiếm hữu của người không phải là chủ sở hữu.
2. Phân tích Điều 165 Bộ luật dân sự 2015.
Theo quy định tại Điều 165 Bộ luật dân sự 2015 thì chiếm hữu chia thành hai loại là chiếm hữu có căn cứ pháp luật ( Khoản 1) và chiếm hữu không có căn cứ pháp luật (khoản 2). Xét về góc độ lý luận và thực tiễn, việc xác định và phân biệt hai trường hợp chiếm hữu này có ý nghĩa rất cần thiết, là cơ sở để xác định quyền, nghĩa vụ của người chiếm hữu.
Điều 165 Bộ luật dân sự 2015 quy định:
“1. Chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong trường hợp sau đây:
a) Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;
b) Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản;
c) Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật;
d) Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo hướng dẫn của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan;
đ) Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo hướng dẫn của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan;
e) Trường hợp khác do pháp luật quy định.
2. Việc chiếm hữu tài sản không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều này là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật. “
Theo khoản 1 chiếm hữu có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu tài sản trong trường hợp được liệt kê cụ thể. Cách quy định như vậy giúp dễ áp dụng, đối chiếu và thực tiễn đồng thời tại điểm e cũng ghi nhận một điều khoản mở rộng giúp cho điều luật có tính bao quát hơn, phòng những trường hợp có thể phát sinh trong thực tiễn mà được pháp luật ghi nhận ở các văn bản khác. Khoản 2 được quy định theo hướng loại trừ. Nếu sự chiếm hữu tài sản của một đối tượng nhất định không thuộc vào các trường hợp được nêu tại khoản 1 thì được coi là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
Chúng ta cũng đi phân tích cụ thể từng trường hợp của khoản 1 để hiểu rõ hơn về chấm dứt có căn cứ pháp luật.
Trường hợp 1: Chủ sở hữu chiếm hữu tài sản;
Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để chi phối tài sản của mình nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội hay nói cách khác thì họ có tất cả các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản đó.
Tuy nhiên cũng có trường hợp chủ sở hữu không kiểm soát tài sản về mặt thực tiễn tài sản nhưng cũng có thể kiểm soát sự tồn tại và việc sử dụng tài sản. Đây là trường hợp chủ sở hữu giao quyền chiếm hữu thực tiễn cho người khác còn mình chỉ thực hiện quyền quản lý tài sản.
Chủ sở hữu có toàn quyền tự mình bằng các hành vi cụ thể để thực hiện quyền chiếm hữu tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Tuy nhiên, việc thực hiện quyền chiếm hữu không được ảnh hưởng đến lợi ích nhà nước, công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, trái pháp luật, trái đạo đức.
Trường hợp 2: Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật
Thông qua các giao dịch dân sự thì chủ sở hữu có quyền ủy quyền người khác quản lý tài sản mà mình là chủ sở hữu. Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản thì có quyền chiếm hữu tài sản trong thời gian được chuyển giao và có quyền chống lại sự xâm phạm của người khác đến sự chiếm hữu của mình.
Điều 187 BLDS 2015 quy định về quyền chiếm hữu của người được ủy quyền quản lý tài sản như sau:
“1. Người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản thực hiện việc chiếm hữu tài sản đó trong phạm vi, theo cách thức, thời hạn do chủ sở hữu xác định.
-
Người được chủ sở hữu uỷ quyền quản lý tài sản không thể trở thành chủ sở hữu đối với tài sản được giao theo hướng dẫn tại Điều 236 của Bộ luật này”
Phạm vi ủy quyền: Người được ủy quyền quản lý tài sản chỉ được chiếm hữu thực tiễn tài sản chứ không có quyền chiếm hữu pháp lý và chỉ có quyền sử dụng tài sản khi được chủ sở hữu đồng ý. Chính vì vậy, Người được ủy quyền mặc dù có chiếm hữu thực tiễn đối với tài sản liên tục, công khai trong thời gian quy định tại Điều 236 ( là 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản) thì người được ủy quyền quản lý tài sản cũng không thể trở thành chủ sở hữu tài sản được ủy quyền quản lý.
Trường hợp 3: Người được chuyển giao quyền chiếm hữu thông qua giao dịch dân sự phù hợp với quy định của pháp luật;
Trong thực tiễn, có rất nhiều những giao dịch mà người chủ sở hữu đã chuyển giao quyền chiếm hữu hoặc chuyển giao quyền chiếm hữu và quyền sử dụng cho người khác.
Ví dụ hợp đồng gửi giữ tài sản, hợp đồng thuê tài sản,…
“ Điều 188. Quyền chiếm hữu của người được giao tài sản thông qua giao dịch dân sự
- Khi chủ sở hữu giao tài sản cho người khác thông qua giao dịch dân sự mà nội dung không bao gồm việc chuyển quyền sở hữu thì người được giao tài sản phải thực hiện việc chiếm hữu tài sản đó phù hợp với mục đích, nội dung của giao dịch.
- Người được giao tài sản có quyền sử dụng tài sản được giao, được chuyển quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản đó cho người khác nếu được chủ sở hữu đồng ý.
- Người được giao tài sản không thể trở thành chủ sở hữu đối với tài sản được giao theo hướng dẫn tại Điều 236 của Bộ luật này”
Thông qua các giao dịch dân sự, chủ sở hữu chỉ giao quyền chiếm hữu và sử dụng thực tiễn đối với tài sản chứ không chuyển giao quyền sử dụng đối với tài sản. Người được giao tài sản phải thực hiện quyền chiếm hữu phù hợp với nội dung và mục đích của giao dịch dân sự. Nói cách khác, quyền định đoạt trong các các giao dịch vẫn thuộc về chủ sở hữu. Chính vì vậy, nếu người được chủ sở hữu giao quyền chiếm hữu hoặc chiếm hữu và sử dụng tài sản muốn chuyển giao quyền này cho người khác thì phải có sự đồng ý của chủ sở hữu.
Trường hợp 4: Người phát hiện và giữ tài sản vô chủ, tài sản không xác định được ai là chủ sở hữu, tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm phù hợp với điều kiện theo hướng dẫn của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan;
Tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên là tài sản mà chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp do lơ đãng, sơ suất để mất quyền chiếm hữu thực tiễn (không trực tiếp nắm giữ, quản lý) ngoài ý muốn của mình.
Kể từ khi phát hiện ra tài sản bị đánh rơi, bị bỏ quên, bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm, tài sản không biết chủ sở hữu thì người phát hiện có quyền chiếm hữu tài sản đó cho đến khi giao nộp cho chủ sở hữu hoặc giao nộp cho đơn vị nhà nước có thẩm quyền. Khi đó, khoảng thời gian từ lúc phát hiện đến khi giao nộp cho các đối tượng trên thì người phát hiện tài sản được xác định là đang chiếm hữu có căn cứ pháp luật.
Tuy nhiên, trong trường hợp người phát hiện biết tài sản đó là do người khác tẩu tán nhằm che giấu hành vi vi phạm pháp luật hoặc trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ dân sự thì người phát hiện phải thông báo hoặc giao nộp ngay cho đơn vị nhà nước có thẩm quyền. Quy định này nhằm giúp đơn vị có thẩm quyền nhanh chóng phát hiện và ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật, bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích xã hội.
Trường hợp 5: Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc phù hợp với điều kiện theo hướng dẫn của Bộ luật này, quy định khác của pháp luật có liên quan;
Người phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc có thể thành chủ sở hữu của gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc nếu sau một thời gian thông báo công khai mà không có người đến nhận theo hướng dẫn tại Điều 231, 232,233 BLDS 2015. Còn trong khoảng thời gian phát hiện và giữ gia súc, gia cầm, vật nuôi dưới nước bị thất lạc và tiến hành các hoạt động thông báo công khai đến thời gian chủ sở hữu nhận lại vật nuôi gia súc, gia cầm thi người phát hiện được xác định là đang chiếm hữu có căn cứ pháp luật.
Trường hợp 6: Trường hợp khác do pháp luật quy định.
Đây là một điều khoản mang tính chất dự liệu, mang tính chất khái quát chung làm cơ sở viện dẫn cho các văn bản pháp luật có thể ra đời sau này.
Căn cứ vào pháp luật hiện hành có thể nhận diện một số trường hợp khác được xác định là chiếm hữu có căn cứ pháp luật đó là:
-
Chiếm hữu tài sản trong tình thế cấp thiết (Khoản 2 Điều 171 BLDS 2015)
-
Cơ quan quản lý di sản (Khoản 3 Điều 616 BLDS 2015)
-
Người quản lý tài sản của người vắng mặt, người bị tuyên bố mất tích (Điều 65 BLDS 2015)
-
Người giám hộ (Khoản 1 Điều 59 BLDS 2015)
- Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cụ thể là đơn vị tiến hành tố tụng thu giữ tài sản là tang vật vi phạm hoặc có liên quan đến vụ án.
- ….,
Theo quy định tại khoản 2 Điều 165 Bộ luật dân sự 2015 thì tất cả các hành vi chiếm hữu tài sản không phải thuộc các trường hợp được ghi nhận tại khoản 1 Điều này thì bị coi là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
Căn cứ vào nhận thức của người chiếm hữu thì việc chiếm hữu thì khi đó vật chiếm hữu không có căn cứ pháp luật sẽ được xác định theo hai trạng thái:
3. Ý nghĩa của chế định chiếm hữu có căn cứ pháp luật.
Xét về góc độ lý luận và thực tiễn, việc xác định và phân biệt hai trường hợp chiếm hữu này có ý nghĩa rất cần thiết, là cơ sở để xác định quyền, nghĩa vụ của người chiếm hữu.
Trong thực tiễn có những trường hợp việc chiếm hữu, sử dụng lại không dựa theo hướng dẫn về chiếm hữu tài sản có căn cứ. Trong trường hợp này, hành vi chiếm hữu, sử dụng tài sản được coi là hành vi bất hợp pháp. Người chiếm hữu, sử dụng tài sản phải trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu.
Mặt khác, chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản được quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
Trên đây là nội dung phân tích của chúng tôi về Điều 165 Bộ luật dân sự 2015 về chiếm hữu có căn cứ pháp luật. Với những kiến thức chọn lọc, phân tích và đánh giá ở trên chúng tôi hy vọng quý bạn đọc đã hiểu được thêm về chiếm hữu có căn cứ pháp luật cũng như những vấn đề pháp lý xoay quanh chiếm hữu có căn cứ pháp luật để từ đó các bạn có thể áp dụng và giải quyết có hiệu quả hơn những vướng mắc trong đời sống của mình. Nếu còn bất kì vướng mắc gì về nội dung này hoặc các vấn đề pháp lý khác bạn có thể phản hồi với Luật LVN Group chúng tôi luôn sẵn sàng để hỗ trợ bạn kịp thời.