Khi tài sản thuộc sở hữu của mình vì một lý do nào đó đang thuộc sự chiếm hữu ngay tình của một người khác thì chủ sở hữu là mình có quyền đòi lại tài sản đó được không? Pháp luật hiện hành có quy định thế nào về vấn đề này. Mời các bạn đón đọc bài phân tích Điều 167 Bộ luật dân sự 2015 dưới đây để có câu trả lời về vấn đề này.
Điều 167 Bộ luật dân sự 2015
1. Thế nào là Quyền đòi lại?
Theo Điều 166 Bộ luật dân sự 2015 đã đưa ra quy định về quyền đòi lại tài sản như sau:
“Điều 166. Quyền đòi lại tài sản
- Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản có quyền đòi lại tài sản từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật.
- Chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản từ sự chiếm hữu của chủ thể đang có quyền khác đối với tài sản đó”.
Vì vậy, ta có thể hiểu một cách đơn giản theo hướng dẫn của pháp luật hiện hành thì quyền đòi lại tài sản là việc chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp yêu cầu đơn vị Tòa án có thẩm quyền buộc các chủ thể là người có hành vi chiếm hữu bất hợp pháp phải trả lại tài sản cho mình.
2. Chiếm hữu ngay tình là gì?
Chiếm hữu là việc chủ thể nắm giữ, chi phối tài sản một cách trực tiếp hoặc gián tiếp như chủ thể có quyền đối với tài sản (Khoản 1 Điều 179 BLDS 2015) Có thể hiểu: Chiếm hữu là sự làm chủ trong thực tiễn của một chủ thể luật đối với một vật, không phụ thuộc vật đó có thuộc sở hữu của người chiếm hữu được không.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 165 Bộ luật dân sự 2015 thì tất cả các hành vi chiếm hữu tài sản không phải thuộc các trường hợp được ghi nhận tại khoản 1 Điều này thì bị coi là chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.
Căn cứ vào nhận thức của người chiếm hữu thì việc chiếm hữu thì khi đó vật chiếm hữu không có căn cứ pháp luật sẽ được xác định theo hai trạng thái:
- Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình
- Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng không ngay tình
Việc chiếm hữu tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình là việc người chiếm hữu mà không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật. Theo suy đoán pháp lý thì việc người thứ ba nhận được tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì được coi là chiếm hữu ngay tình.
3. Phân tích Điều 167 Bộ luật dân sự 2015
Theo Điều 167 của Bộ luật dân sự 2015, “chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình trong trường hợp người chiếm hữu ngay tình có được động sản này thông qua hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản; trường hợp hợp đồng này là hợp đồng có đền bù thì chủ sở hữu có quyền đòi lại động sản nếu động sản đó bị lấy cắp, bị mất hoặc trường hợp khác bị chiếm hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu”.
Quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản là động sản về nguyên tắc không phải đăng ký, trừ một số động sản mà pháp luật có quy định.
Theo quy định trên, quyền đòi lại tài sản của chủ sở hữu đối với động sản không phải đăng ký quyền sở hữu với điều kiện:
– Người chiếm hữu động sản đó được xác định là chiếm hữu ngay tình;
– Người chiếm hữu ngay tình tài sản đó thông qua một giao dịch không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài sản.
Theo những quy định trên, đã loại trừ những trường hợp cho dù một người chiếm hữu tài sản của chủ sở hữu thông qua một giao dịch có đền bù, nhưng hành vi của người chiếm hữu tài sản đó được xác định là hành vi không ngay tình khi chiếm hữu, thì người này có trách nhiệm trả lại tài sản cho chủ sở hữu. Quy định này nhằm bảo vệ lợi ích tuyệt đối của chủ sở hữu, đồng thời nhằm ngăn chặn các hành vi lợi dụng để chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu thông qua giao dịch.
Vì vậy, quyền đòi lại tài sản của chủ sở hữu động sản không phải đăng ký quyền sở hữu phụ thuộc vào ý chí và hành vi của người đang chiếm hữu được xác định là ngay tình, nhưng người đang chiếm hữu đó có được tài sản do người không có quyền chuyển giao theo hợp đồng không có đền bù. Người không có quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu thường là người thuê, mượn, nhận gửi giữ, người vận chuyển, người nhận cầm cố, người nhận đặt cọc tài sản của chủ sở hữu động sản không phải đăng ký quyền sở hữu, không được sự cho phép của chủ sở hữu nhưng người chiếm hữu vẫn chuyển giao tài sản thông qua hợp đồng không có đền bù cho người thứ ba như tặng cho tài sản, thì chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản. Quy định này nhằm ngăn chặn hành vi lạm dụng lòng tin để chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu. Hơn nữa, người đang chiếm hữu tài sản được chuyển giao cho dù là chiếm hữu ngay tình, vẫn có nghĩa vụ phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu và lợi ích của người này cũng không bị xâm phạm. Ngược lại, nếu người đang chiếm hữu tài sản của chủ sở hữu được xác định là chiếm hữu không ngay tình, thì cho dù hợp đồng chuyển giao tài sản đó là hợp đồng có đền bù, người chiếm hữu không ngay tình vẫn có nghĩa vụ trả lại tài sản đó cho chủ sở hữu.
Nhằm ngăn chặn hành vi lấy cắp tài sản của chủ sở hữu, và tài sản đó do người lấy cắp chuyển giao cho người thứ ba thông qua hợp đồng có đền bù, thì chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản ở người đang chiếm hữu, cho dù hành vi chiếm hữu của người này là ngay tình hoặc không ngay tình.
Quyền đòi lại tài sản của chủ sở hữu động sản không phải đăng ký quyền sở hữu được đáp ứng kể cả trong trường hợp tài sản này bị mất và trong những trường hợp khác, loại động sản này dời khỏi chủ sở hữu ngoài ý chí của chủ sở hữu.
Quyền kiện đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu, chỉ được đáp ứng trong trường hợp tài sản đó vẫn còn. Vì vậy, nếu động sản là đối tượng của vụ kiện không còn tồn tại (do bị mất, bị tiêu huỷ…), thì mục đích kiện đòi lại động sản đó của chủ sở hữu hoặc của người chiếm hữu hợp pháp không được đáp ứng. Trong trường hợp này, quyền của chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu hợp pháp chỉ được bảo vệ theo phương thức kiện trái quyền.
Tuỳ theo loại động sản có phải đăng ký quyền sở hữu được không thì việc đòi lại động sản của chủ sở hữu có sự khác nhau nhất định.
Chủ sở hữu được đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình, trừ trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản đã được đăng ký tại đơn vị nhà nước có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch dân sự khác cho người thứ ba ngay tình và người này căn cứ vào việc đăng ký đó mà xác lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu.
Trường hợp tài sản phải đăng ký mà chưa được đăng ký tại đơn vị nhà nước có thẩm quyền thì giao dịch dân sự với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba ngay tình nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá tại tổ chức có thẩm quyền hoặc giao dịch với người mà theo bản án, quyết định của đơn vị nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó chủ thể này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.
4. Ý nghĩa của Điều 167 Bộ luật dân sự 2015
Quyền đòi lại tài sản là một chế định có ý nghĩa to lớn để bảo vệ quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia giao dịch dân sự.
Quy định này nhằm ngăn chặn lại các hành vi chiếm đoạt trái pháp luật tài sản của chủ sở hữu. Tuy việc chiếm hữu của người thứ ba là ngay tình nhưng cách thức tài sản rời khỏi chủ sở hữu là ngoài ý chí của chủ sở hữu nên người thứ ba chiếm hữu ngay tình thông qua hợp đồng có đền bù vẫn phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu.
Trên đây là nội dung phân tích của chúng tôi về Điều 167 Bộ luật dân sự 2015 về Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình Với những kiến thức chọn lọc, phân tích và đánh giá ở trên chúng tôi hy vọng quý bạn đọc đã hiểu được thêm về Quyền đòi lại động sản không phải đăng ký quyền sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình cũng như những vấn đề pháp lý xoay quanh đó để từ đó các bạn có thể áp dụng và giải quyết có hiệu quả hơn những vướng mắc trong đời sống của mình. Nếu còn bất kì vướng mắc gì về nội dung này hoặc các vấn đề pháp lý khác bạn có thể phản hồi với Luật LVN Group chúng tôi luôn sẵn sàng để hỗ trợ bạn kịp thời.