Điều 18 Hiến pháp Việt Nam 1992 [Cập nhập 2023] - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Điều 18 Hiến pháp Việt Nam 1992 [Cập nhập 2023]

Điều 18 Hiến pháp Việt Nam 1992 [Cập nhập 2023]

Điều 18 Hiến pháp Việt Nam 1992

Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả.
Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài.
Tổ chức và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm đất, được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo hướng dẫn của pháp luật.

1. Hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp 1992

Sau một thời gian phát huy hiệu lực, nhiều quy định của Hiến pháp năm 1980 tỏ ra không phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước. Tình hình thực tiễn của đất nước đòi hỏi phải có một bản Hiến pháp mới, phù hợp hơn để thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội, xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
       Đại hội Đảng toàn tuốc lần thứ VI năm 1986 đã mở ra thời kỳ đổi mới ở nước ta. Với tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, Quốc hội khóa 8, tại kỳ họp thứ 3 ngày 22/12/1998 đã ra Nghị quyết sửa đỏi lời nói đầu của Hiến pháp 1980; ngày 30/6/1989, kỳ họp thứ V Quốc hội khóa 8 lại ra Nghị quyết sửa đổi 7 điều: 57, 116, 118, 122, 123, 125 để xác định thêm quyền ứng cử vào Quốc hội, hội đồng nhân dân của công dân và thành lập thêm thường trực HĐND trong cơ cấu hội đồng nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện đồng thời củng cố thêm các mặt hoạt động của hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân. Trong kỳ họp này Quốc hội đã ra Nghị quyết thành lập Ủy ban sửa đổi Hiến pháp để sửa đổi Hiến pháp một cách cơ bản, toàn diện đáp ứng yêu cầu của tình hình kinh tế, xã hội mới, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế.
        Cuối năm 1991 đầu năm 1992 Bản dự thảo Hiến pháp lần ba đã được đưa ra trưng cầu ý kiến nhân dân. Dự thảo Hiến pháp lần 4 hoàn thành và được trình lên Quốc hội khóa VIII, tại kỳ họp thứ XI xem xét. Sau nhiều ngày thảo luận sôi nổi với những chỉnh lý và bổ sung nhất định, ngày 15/4/1992 Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp.  
       Hiến pháp 1992 gồm Lời nói đầu và 147 điều chia làm 12 chương: Chương I- Chế độ chính trị; Chương II- Chế độ kinh tế; Chương III- Văn hoá, giáo dục, khoa học, công nghệ; Chương IV- Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Chương V- Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; Chương VI- Quốc hội; Chương VII- Chủ tịch nước; Chương VIII- Chính phủ; Chương IX- Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân; Chương X- Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân, Chương XI- Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô ngày Quốc Khánh; Chương XII- Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp. Lời nói đầu của Hiến pháp 1992 về cơ bản cũng giống như lời nói đầu của các Hiến pháp trước, ghi nhận những thành quả của cách mạng Việt Nam và xác định những nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Trong lời nói đầu cũng xác định những vấn đề cơ bản mà Hiến pháp sẽ quy định.
      Hiến pháp 1992 đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của lịch sử lập hiến ViệtNam. Đây là bản Hiến pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ đổi mới toàn diện và sâu sắc về kinh tế, từng bước và vững chắc về chính trị. Đây là bản Hiến pháp kế thừa có chắt lọc những tinh hoa của các Hiến pháp 1946; 1959; 1980; đồng thời là bản Hiến pháp vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng chủ nghĩa xã hội vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta.
       Trước tình hình hiện nay, đất nước ta đã có nhiều thay đổi trong bối cảnh tình hình quốc tế có những chuyển biến to lớn, sâu sắc và phức tạp. Yêu cầu sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để bảo đảm đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, xây dựng và bảo vệ đất nước, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế là hết sức cần thiết.

2. Quyền sở hữu theo Hiến pháp 1992

Về vấn đề sở hữu, Hiến pháp 1992 đã khôi phục lại phạm vi và đối tượng quyền sở hữu của công dân, nhưng được thể hiện trên một tinh thần mới, phù hợp với chính sách kinh tế và quy định về quyền tự do kinh doanh của công dân: “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, TLSX, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác”; đối với đất được Nhà nước giao sử dụng thì theo hướng dẫn tại Điều 17 và 182, “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”3.  Vì vậy, qua các quy định trên, phạm vi quyền sở hữu của công dân ngày càng được mở rộng, nhất là quyền sở hữu đối với TLSX nói chung và quyền sử dụng đất đai nói riêng4 – điều mà Hiến pháp 1980 đã không thừa nhận. Nhà nước cho phép cá nhân, hộ gia đình thực hiện các quyền khai thác, sử dụng, chuyển nhượng, cho thuê, đổi, thừa kế quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đất được Nhà nước thừa nhận là hàng hoá có giá trị kinh tế đặc biệt cần thiết của cá nhân, hộ gia đình và các chủ thể khác. Khi không còn nhu cầu sử dụng đất thì cá nhân, hộ gia đình có quyền chuyển nhượng, cho, tặng, để lại thừa kế. Vì vậy, người dân sẽ an tâm lao động sản xuất trên đất được Nhà nước giao hoặc được chuyển nhượng quyền sử dụng. Ngoài quyền sử dụng đất, Hiến pháp còn chỉ rõ: công dân có quyền tham gia vào nhiều loại hình kinh doanh khác nhau, ngoài TLSX thì việc đóng góp vốn dưới cách thức như tiền, vàng, mua cổ phiếu, trái phiếu… cũng nằm trong phạm vi quyền sở hữu của công dân.

Về tư hữu, Hiến pháp 1992 đã công nhận quyền sở hữu riêng của công dân. Đây là chủ trương đúng đắn, phù hợp với đường lối phát triển nền KTTT theo định hướng XHCN ở nước ta. Theo đó, tài sản hợp pháp thuộc cách thức sở hữu tư nhân không bị hạn chế về số lượng, giá trị, được bảo vệ bằng nhiều biện pháp khác nhau, như: công dân có quyền yêu cầu tòa án, đơn vị, tổ chức có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu phải trả lại tài sản và yêu cầu bồi thường tổn hại3… Có thể nói, Hiến pháp 1992 đã thể chế hóa đường lối của Đảng về phát triển nền KTTT định hướng XHCN với nhiều cách thức sở hữu về TLSX: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng. Trên cơ sở đó, các cách thức sở hữu hỗn hợp, đan xen cũng được hình thành, đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển KTTT ở nước ta. Đặc biệt, CĐSH toàn dân đối với đất đai theo hướng dẫn của Hiến pháp 1992 đã được thể chế bằng Luật Đất đai, theo hướng làm rõ hơn nội dung quyền của chủ sở hữu, quyền của người sử dụng đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất đối với người đang sử dụng đất ổn định. Nhờ vậy, tài nguyên đất đai ngày càng được phát huy, trở thành nguồn lực cần thiết, góp phần thúc đẩy đầu tư và phát triển kinh tế đất nước.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com