Luật hình sự Việt Nam quy định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự chỉ là trường hợp đặc biệt, còn nói chung đa số những người không rơi vào tình trạng quy định tại Điều 21 BLHS năm 2015 thì mặc nhiên được coi là có năng lực TNHS. Vậy Điều 21 – Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là gì? Bài viết dưới đây của LVN Group liên quan đến hi vọng đem đến nhiều thông tin chi tiết và cụ thể đến Quý bạn đọc.
Điều 21 – Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
I. Căn cứ pháp lý
“Điều 21. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.“
II. Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
Nội dung quy định về tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự trong BLHS năm 1999 được quy định tại Điều 13 với nội dung cơ bản như quy định của Điều 21 BLHS năm 2015. Điểm khác là trong nội dung quy định của Điều 13 BLHS năm 1999 đã đưa ra cách xử lí: “1.Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự”, đối với người này phải áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh.
– Người phạm tội trong khi có năng lực trách nhiệm hình sự, nhưng đã lâm vào tình trạng quy định tại khoản 1 Điều này trước khi bị kết án thì cũng được áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó có thể phải chịu trách nhiệm hình sự”.
Điều 13 BLHS năm 1999 không chỉ quy định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự mà còn quy định cách thức xử lí đối với các trường hợp mắc bệnh tâm thần trong khi thực hiện tội phạm hoặc mắc bệnh tâm thần sau khi thực hiện tội phạm.
BLHS năm 2015 chỉ đơn thuần quy định những trường hợp đang mắc bệnh tâm thần mà gây tổn hại cho xã hội thì không phải chịu trách nhiệm hình sự, phù hợp với tiêu chí của chương 4. “Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự”. Do vậy, việc quy định như vậy là hợp lý. Tuy nhiên, BLHS năm 1999 quy định tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 13) liền sát với Điều 12 quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự là dấu hiệu cơ bản trong việc xác định chủ thể của tội phạm có thể thuận lợi hơn khi áp dụng trong thực tiễn cũng như quá trình nghiên cứu các dấu hiệu chủ thể của tội phạm.
Về nội dung Điều 21 BLHS năm 2015 cũng quy định các dấu hiệu để xác định người trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, đó là:
+ Thứ nhất, người gây tổn hại cho xã hội là người mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác gây rối loạn hoạt động tâm thần (dấu hiệu về y học).
Các loại bệnh tâm thần thường gặp như các bệnh thiểu năng tâm thần, tâm thần phân liệt…hoặc một số bệnh khác như loạn thần do tuổi già, rối loạn nhận thức sau tai biến, rối loạn nhận thức sau chấn thương sọ não, bệnh động kinh…
Theo các nhà y học khi mắc bệnh tâm thần thì làm ảnh hưởng đến hoạt động nhận thức của con người và từ đó ảnh hưởng đến khả năng điều khiển hành vi của họ.
+ Thứ hai, do mắc bệnh tâm thần đã làm mất khả năng nhận thức hoặc mất khả năng điều khiển hành vi (dấu hiệu về tâm lý).
Dấu hiệu tâm lý phản ánh khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm của hành vi, nhận thức về những đòi hỏi của xã hội khi thực hiện hành vi nhất định. Người không có năng lực trách nhiệm hình sự là người mất đi năng lực đánh giá hành vi đã thực hiện, họ không hiểu được hành vi đó là đúng hay sai, có phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội được không, có phù hợp với quy định của pháp luật được không…Chính vì sự rối loạn nhận thức như vậy, nên họ không thể kiềm chế việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng như cân nhắc, lựa chọn xử sự cho phù hợp với đòi hỏi của xã hội.
Theo ngành y học và tâm lý thì khi một người mất năng lực nhận thức thì tất yếu làm mất khả năng điều khiển hành vi. Nhưng cũng có những trường hợp mắc các loại bệnh khác như động kinh…có lúc lên cơn bệnh ở trong thời gian nhất định, nhưng do xung động bệnh lý mà con người này không thể điều khiển hành vi của mình theo mong muốn. Ví dụ một người đang điều khiển ô tô bất ngờ lên cơn động kinh đã làm cho chân tay họ không thể điều khiển ô tô theo ý muốn nên tai nạn giao thông nghiêm trọng đã xảy ra, mặc dù thời gian đó có thể nhận thức của họ vẫn còn.
Vì vậy, một người được coi là trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự phải đồng thời thỏa mãn hai dấu hiệu y học (mắc bệnh) và tâm lý (khả năng nhận thức…), trong đó dấu hiệu tâm lý có vai trò quyết định. Bởi nếu người đang mắc bệnh tâm thần nhưng mức độ nhẹ, chỉ làm hạn chế khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi (họ vẫn là người có điều kiện để có lỗi) thì họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự nếu gây tổn hại cho xã hội nhưng có thể được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
III. Các câu hỏi liên quan thường gặp
1. Người có năng lực trách nhiệm hình sự là gì?
Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển được hành vi ấy.
Theo Luật hình sự Việt Nam, người có năng lực trách nhiệm hình sự là người đã đạt độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12 Bộ luật hình sự 2015) và không thuộc trường hợp ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21 Bộ luật hình sự 2015).
2. Dưới 18 tuổi cố ý gây thương tích cho người khác có phải chịu trách nhiệm hình sự không?
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Còn với những người từ đủ 16 tuổi trở lên sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi hành vi của mình gây ra.
Trên đây là nội dung trình bày mà chúng tôi gửi tới đến Quý bạn đọc về Điều 21 – Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự. Trong quá trình nghiên cứu và nghiên cứu, nếu như quý bạn đọc còn câu hỏi hay quan tâm đến Điều 21 – Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự, quý bạn đọc vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hướng dẫn.