Điều 38 Luật Công chứng 2014 - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Điều 38 Luật Công chứng 2014

Điều 38 Luật Công chứng 2014

Các giấy tờ được pháp luật hiện hành quy định thực hiện công chứng thì đều là các giấy tờ rất cần thiết về tính thật giả gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của chủ thể trong quá trình giao dịch. Chính vì vậy mà khi các cá nhân, tổ chức thực hiện việc công chứng thì có sảy ra thiệt hai do sự sai sót của công chứng viên thì công chứng viên cần phải thực hiện trách nhiệm bồi thường tổn hại đối với việc làm sai gây ra hậu quả đối với cá nhân, tổ chức có giấy tờ bị công chứng sai đó. Để hiểu rõ hơn về nội dung này chúng tôi sẽ phân tích Điều 38 luật công chứng 2014 qua nội dung trình bày dưới đây.

Điều 38 luật công chứng 2014

1. Quy định chung về công chứng

Công chứng là chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết và các giấy tờ từ bản gốc được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác.

Theo khoản 1 Điều 2 Luật công chứng 2014, Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận:

+ Tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch);

+ Tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch).

Mà theo hướng dẫn của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.

Đặc điểm của công chứng

– Công chứng là một hoạt động do công chứng viên thực hiện theo hướng dẫn của pháp luật.

– Người yêu cầu công chứng có thể là cá nhân, tổ chức Việt Nam hoặc là cá nhân, tổ chức nước ngoài có yêu cầu thực hiện công chứng các hợp đồng, các giao dịch hoặc các bản dịch.

– Nội dung của việc công chứng là để xác định tính hợp pháp của các hợp đồng, của các giao dịch dân sự. Xác nhận tính chính xác, tính hợp pháp và không trái với đạo đức xã hội của các bản dịch giấy tờ, của các văn bản.

– Có hai loại giao dịch được công chứng hiện nay là các loại hợp đồng giao dịch bắt buộc phải thực hiện công chứng theo hướng dẫn của pháp luật và những hợp đồng giao dịch do tổ chức, do cá nhân tự nguyện yêu cầu việc công chứng.

Ý nghĩa của việc công chứng

Theo quy định của pháp luật, có một số loại hợp đồng, giao dịch bắt buộc phải công chứng. Trong các trường hợp các bên không thực hiện công chứng, hợp đồng đó được coi là vô hiệu và không có giá trị pháp lý. Thông thường, các giao dịch liên quan đến bất động sản như mua bán, tặng cho, thế chấp, góp vốn… đều phải công chứng.

Việc công chứng giúp các bên hạn chế được những rủi ro từ những hợp đồng, giao dịch dân sự, thương mại không được công chứng.

2. Bồi thường, bồi hoàn trong hoạt động công chứng

Trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn trong hoạt động công chứng theo Điều 38 Luật công chứng 2014 quy định như sau:

1. Tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường tổn hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do lỗi mà công chứng viên, chuyên viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng.

2. Công chứng viên, chuyên viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên gây tổn hại phải hoàn trả lại một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng đã chi trả khoản tiền bồi thường cho người bị tổn hại theo hướng dẫn của pháp luật; trường hợp không hoàn trả thì tổ chức hành nghề công chứng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.

hư vậy, pháp luật đã quy định về trách nhiệm bồi thường tổn hại (sau đây viết tắt là BTTH) của tổ chức hành nghề công chứng (viết tắt là TCHNCC) nếu do lỗi của công chứng viên, chuyên viên hoặc người phiên dịch gây ra trong quá trình công chứng. Do đó, nếu trong vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu mà có lỗi của TCHNCC dẫn đến văn bản công chứng bị tuyên bố vô hiệu và gây ra tổn hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác thì TCHNCC phải có trách nhiệm BTTH.

Tuy nhiên, việc giải quyết trách nhiệm BTTH của TCHNCC ngay trong vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu hay cần phải tách ra bằng một vụ việc khác về yêu cầu bồi thường tổn hại, để vừa giải quyết triệt để yêu cầu của đương sự nhưng cũng không gây khó khăn cho Tòa án trong việc giải quyết vụ án thì hiện nay vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau.

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Trách nhiệm BTTH của TCHNCC phải được giải quyết ngay trong vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu. Bởi lẽ, theo hướng dẫn tại Điều 131 của Bộ luật Dân sự 2015 thì “Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời gian giao dịch được xác lập; khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả…Bên có lỗi gây tổn hại thì phải bồi thường”. Khi Tòa án tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu thì phải giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu. Vì vậy, nếu chứng minh được lỗi dẫn đến văn bản công chứng vô hiệu là do TCHNCC gây ra thì TCHNCC phải có trách nhiệm BTTH cho người yêu cầu, người liên quan bị tổn hại. Nguyên tắc của bồi thường tổn hại là ‘tổn hại thực tiễn phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời”. Bên cạnh đó, để đảm bảo những yêu cầu của đương sự và những vấn đề phát sinh trong vụ án được giải quyết triệt để, toàn diện thì trách nhiệm TBTH của TCHNCC phải được giải quyết ngay trong vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.

Quan điểm thứ hai lại cho rằng: Không thể giải quyết về trách nhiệm BTTH của TCHNCC ngay trong vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu mà phải tách ra bằng một vụ án khác. Bởi lẽ, đa phần tại thời gian giải quyết vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu thì tổn hại từ hậu quả của văn bản công chứng vô hiệu chưa xảy ra trên thực tiễn (mặc dù chắc chắn rằng tổn hại sẽ xảy ra) hoặc có xảy ra thì cũng chưa thể xác định cụ thể về mức độ tổn hại, hay nói cách khác là không có định lượng chính xác về tổn hại. Bên cạnh đó, khi văn bản công chứng bị tuyên bố vô hiệu, trong một số trường hợp, lỗi không hoàn toàn thuộc về công chứng viên, chuyên viên…của TCHNCC mà có cả lỗi của người yêu cầu công chứng, người liên quan. Vì thế, nếu giải quyết trách nhiêm bồi thường của TCHNCC thì phải xác định phần lỗi của từng đương sự để xác định phần trách nhiệm. Nhưng tổn hại thực tiễn chưa xảy ra hoặc chưa thể xác định trọn vẹn, cụ thể, rõ ràng, chính xác về tổn hại là bao nhiêu, thế nào nên Tòa án cũng không thể buộc từng đương sự phải chịu phần bồi thường là bao nhiêu. Vì thế, để giải quyết việc bồi thường của TCHNCC được chính xác thì cần phải chờ khi các bên thi hành bản án của vụ việc tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu, thực hiện nghĩa vụ cho nhau đối với hậu quả của hợp đồng vô hiệu thì lúc này mới xác định được cụ thể tổn hại thực tiễn xảy ra. Do đó, trong trường hợp này Tòa án cần phải giải thích và hướng dẫn cho đương sự rút yêu cầu về trách nhiệm BTTH của TCHNCC và khởi kiện bằng một vụ án khác khi tổn hại thực tiễn đã xảy ra và đã xác định được cụ thể về định lượng. Nếu đương sự vẫn không rút yêu cầu thì Tòa án yêu cầu họ chứng minh về tổn hại để có căn cứ giải quyết, nếu họ không chứng minh được thì bác và tách yêu cầu này của họ để họ khởi kiện thành một vụ án khác.

Trên đây là các nội dung trả lời của chúng tôi về Điều 38 luật công chứng 2014. Trong quá trình nghiên cứu, nếu như các bạn cần Công ty Luật LVN Group hướng dẫn các vấn đề pháp lý vui lòng liên hệ với chúng tôi qua các thông tin sau:

  • Hotline: 1900.0191
  • Zalo: 1900.0191
  • Gmail: info@lvngroup.vn
  • Website: lvngroup.vn

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com