Điều 39 luật công chứng - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Điều 39 luật công chứng

Điều 39 luật công chứng

Tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên không chỉ đem lại nhiều lợi ích cho hoạt động công chứng mà còn góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với hoạt động này. Trước sự phát triển về quy mô, tính chất xã hội hóa và yêu cầu riêng biệt đối với việc hành nghề công chứng, việc thành lập tổ chức chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên là xu thế tất yếu nhằm quy tụ sức mạnh, thống nhất ý chí, hỗ trợ lẫn nhau trong công việc, xây dựng hoạt động công chứng ngày càng chuyên nghiệp, hiện đại. Để hiểu rõ hơn về nội dung này chúng tôi sẽ phân tích Điều 39 luật công chứng qua nội dung trình bày dưới đây.

Điều 39 luật công chứng

1. Quy định chung về công chứng

Công chứng là chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết và các giấy tờ từ bản gốc được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác.

Theo khoản 1 Điều 2 Luật công chứng 2014, Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận:

+ Tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch);

+ Tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch).

Mà theo hướng dẫn của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng.

Đặc điểm của công chứng

– Công chứng là một hoạt động do công chứng viên thực hiện theo hướng dẫn của pháp luật.

– Người yêu cầu công chứng có thể là cá nhân, tổ chức Việt Nam hoặc là cá nhân, tổ chức nước ngoài có yêu cầu thực hiện công chứng các hợp đồng, các giao dịch hoặc các bản dịch.

– Nội dung của việc công chứng là để xác định tính hợp pháp của các hợp đồng, của các giao dịch dân sự. Xác nhận tính chính xác, tính hợp pháp và không trái với đạo đức xã hội của các bản dịch giấy tờ, của các văn bản.

– Có hai loại giao dịch được công chứng hiện nay là các loại hợp đồng giao dịch bắt buộc phải thực hiện công chứng theo hướng dẫn của pháp luật và những hợp đồng giao dịch do tổ chức, do cá nhân tự nguyện yêu cầu việc công chứng.

Ý nghĩa của việc công chứng

Theo quy định của pháp luật, có một số loại hợp đồng, giao dịch bắt buộc phải công chứng. Trong các trường hợp các bên không thực hiện công chứng, hợp đồng đó được coi là vô hiệu và không có giá trị pháp lý. Thông thường, các giao dịch liên quan đến bất động sản như mua bán, tặng cho, thế chấp, góp vốn… đều phải công chứng.

Việc công chứng giúp các bên hạn chế được những rủi ro từ những hợp đồng, giao dịch dân sự, thương mại không được công chứng.

2. Tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên

Điều 39 Luật Công chứng năm 2014 quy định: “Tổ chức xã hội – nghề nghiệp của công chứng viên là tổ chức tự quản được thành lập ở cấp trung ương và cấp tỉnh để uỷ quyền và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các công chứng viên; ban hành quy tắc đạo đức hành nghề công chứng; giám sát việc tuân thủ quy định của pháp luật về công chứng, quy tắc đạo đức hành nghề công chứng; tham gia cùng đơn vị nhà nước trong việc tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tập sự hành nghề công chứng; tham gia ý kiến với đơn vị có thẩm quyền trong việc bổ nhiệm, miễn nhiệm công chứng viên, thành lập, hợp nhất, sáp nhập, chuyển nhượng, chấm dứt hoạt động của tổ chức hành nghề công chứng và thực hiện các nhiệm vụ khác liên quan đến hoạt động công chứng theo hướng dẫn của Chính phủ”.

Tổ chức xã hội – nghề nghiệp (TCXHNN) của CCV đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của HĐCC cũng như nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động này. Căn cứ:

Thứ nhất, TCXHNN của CCV đã tập hợp đội ngũ CCV đang hành nghề tại các tỉnh, thành phố trên cả nước thành một khối thống nhất xuyên suốt từ trung ương đến địa phương. Theo số liệu thống kê của Bộ Tư pháp, tính đến tháng 12/2018, cả nước có 1.026 tổ chức hành nghề công chứng (trong đó có 125 phòng công chứng, 901 văn phòng công chứng). Đội ngũ CCV đã lên tới 2.574 CCV. TCXHNN đã trở thành diễn đàn sinh hoạt chung của hơn 2.000 CCV, giúp các CCV có thể thường xuyên trao đổi, học tập về kiến thức chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp2.

Thứ hai, TCXHNN của CCV đã trở thành cầu nối gắn kết hoạt động giữa các tổ chức hành nghề công chứng, giúp các tổ chức hành nghề công chứng có thể chia sẻ dữ liệu công chứng, trao đổi kinh nghiệm tổ chức hoạt động. Nhờ vậy, số lượng đầu việc công chứng được giải quyết qua các năm ngày càng tăng. Theo thống kê của Bộ Tư pháp, năm 2015, số đầu việc công chứng được giải quyết là 4.363.960 việc, với tổng số tiền thu nộp vào ngân sách nhà nước gần 310 nghìn tỷ đồng 3; đến năm 2018, số đầu việc công chứng được giải quyết lên đến 6.716.309 việc, tổng số tiền thu nộp vào ngân sách nhà nước gần 348 nghìn tỷ đồng 4.

Điều 39 luật công chứng

Thứ ba, TCXHNN của CCV đã tích cực tham gia các nội dung quản lý nhà nước cùng với CQNN như: hướng dẫn nghiệp vụ, bồi dưỡng định kỳ; tham gia xây dựng cơ sở dữ liệu quản lý hoạt động công chứng; đề nghị, tham mưu với Bộ Tư pháp về việc phân bố tổ chức hành nghề công chứng; cho ý kiến về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm CCV; giám sát hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng trong việc thi hành các quy định của pháp luật…

Tuy nhiên, tại một số địa phương, vai trò của TCXHNN đối với HĐCC còn chưa rõ nét. Căn cứ:

Thứ nhất, tính đến cuối năm 2018, một số tỉnh vẫn chưa thành lập được Hội CCV, như: Phú Thọ, Hà Giang, Bắc Giang… Hiện nay, trên cả nước mới có 50 tỉnh, thành phố thành lập hội CCV, như vậy, hiện còn 13 tỉnh, thành phố chưa thành lập được tổ chức này.

Thứ hai, thiếu quy chế phối hợp giữa các hội CCV  và đơn vị quản lý nhà nước (trong đó sở Tư pháp đóng vai trò chủ quản). Bên cạnh đó, các hội CCV còn lúng túng khi tham gia công tác quản lý nhà nước, như: việc tổ chức hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ cho CCV chưa được thực hiện một cách đều đặn; nhiều vụ việc xử lý vi phạm liên quan đến HĐCC. Hoặc có nhiều địa phương tuy đã xây dựng quy chế nhưng chưa thể hiện hết vai trò của Hội như: không có nội dung tham gia xây dựng các văn bản quản lý nhà nước; không có sự phối hợp trong việc trao đổi, hợp tác với các địa phương khác…

Đặc biệt, phần lớn các nội dung trong quy chế được xây dựng theo hướng, CQNN lấy ý kiến hoặc thông báo cho Hội biết mà không chú trọng đến việc phát huy tính chủ động của Hội trong việc tham gia góp ý xây dựng các quy định, quy chế liên quan đến quản lý nhà nước.

Trên đây là các nội dung trả lời của chúng tôi về Điều 39 luật công chứng. Trong quá trình nghiên cứu, nếu như các bạn cần Công ty Luật LVN Group hướng dẫn các vấn đề pháp lý vui lòng liên hệ với chúng tôi qua các thông tin sau:

  • Hotline: 1900.0191
  • Zalo: 1900.0191
  • Gmail: info@lvngroup.vn
  • Website: lvngroup.vn

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com