Quyền con người là một trong những quyền thiêng liêng và cao cả, mang ý nghĩa nhân văn, nhân đạo sâu sắc, đặc biệt là quyền được bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Pháp luật nước ta rất quan tâm đến vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đơn vị, cá nhân, tổ chức. Vấn đề bảo vệ quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ được đặt ra khi có hành vi xâm phạm tới quyền của cá nhân, đơn vị, tổ chức. Quyền yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp được ghi nhận tại Điều 4 Bộ luật tố tụng dân sự.
1. Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là nguyên tắc đặc trưng của tố tụng dân sự, ghi nhận một quyền con người cơ bản được thừa nhận trong luật nhân quyền quốc tế, đó là quyền tiếp cận công lý. Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ là biểu hiện của năng lực pháp luật tố tụng dân sự của các chủ thể và mọi chủ thể đều được bình đẳng về quyền.
Điểm giống nhau của quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ với các quyền khác ở chỗ khi một người sinh ra hoặc một pháp nhân được thành lập thì đã ngay lập tức có quyền này. Mặt khác, điểm khác nhau giữa quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ so với các quyền khác nằm ở chỗ quyền này chỉ có thể sử dụng khi có hành vi xâm phạm tới quyền dân sự của chủ thể.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 quy định về quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, theo đó, đơn vị, tổ chức, cá nhân do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác. Người bị kiện, người thứ ba có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng có thể yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi cho mình thông qua quy định về quyền yêu cầu phản tố của bị đơn, quyền yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
- Thứ nhất, đơn vị, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Cá nhân, đơn vị, tổ chức muốn có quyền khởi kiện hoặc yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì người khởi kiện, khi yêu cầu giải quyết việc dân sự phải có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hoặc có quyền và lợi ích hợp pháp cần được bảo vệ.
- Thứ hai, đơn vị, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Vì tố tụng dân sự không chỉ nhằm mục tiêu bảo vệ quyền lợi của cá nhân, tổ chức khởi kiện mà còn bảo vệ công lý, lợi ích xã hội nên người không có lợi ích liên quan cũng có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Tuy nhiên không phải mọi đơn vị, tổ chức, cá nhân nào cũng có quyền khởi kiện, yêu cầu để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người khác. Chủ thể có quyền khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp này được xác định căn cứ vào quy định của pháp luật cụ thể:
– Theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 thì người uỷ quyền theo pháp luật của người chưa thành niên (trừ người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình); người mất năng lực hành vi dân sự; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi của mình có quyền khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người chưa thành niên, người mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi.
– Đối với những vụ việc hôn nhân thì đơn vị quản lý nhà nước về gia đình, đơn vị quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện, yêu cầu vụ việc về hôn nhân và gia đình theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 10, khoản 5 Điều 84, khoản 2 Điều 86, khoản 3 Điều 102, khoản 2 Điều 119 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Theo đó, các đơn vị này có quyền khởi kiện, yêu cầu về huỷ những hành vi trái với quy định của pháp luật hôn nhân như việc kết hôn trái pháp luật, yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên, tranh chấp xác định cha, mẹ, con, tranh chấp về nghĩa vụ cấp dưỡng.
– Cơ quan lao động, thương binh và xã hội, hội liên hiệp phụ nữ có quyền yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi theo Điều 26 Luật Nuôi con nuôi 2010.
– Tổ chức uỷ quyền tập thể lao động có quyền khởi kiện vụ án lao động trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao động theo hướng dẫn của Bộ luật lao động 2019.
– Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có quyền uỷ quyền cho người tiêu dùng khởi kiện bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
– Cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 10, khoản 5 Điều 84, khoản 2 Điều 86, khoản 3 Điều 102, khoản 2 Điều 119, khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Điều 26 Luật Nuôi con nuôi.
- Thứ ba, đơn vị, tổ chức khởi kiện để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng
Vì lợi ích chung của công đồng, Điều 4 Bộ luật tố tụng dân sự còn ghi nhận quyền khởi kiện vì lợi ích Nhà nước, lợi ích cộng đồng. Tuy nhiên, không phải bất kỳ đơn vị, tổ chức nào cũng có quyền khởi kiện vì lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng. Những đơn vị, tổ chức có quyền khởi kiện trong trường hợp này phải được Nhà nước trao quyền quản lý trong phạm vi lĩnh vực nhất định. Cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách.
2. Nghĩa vụ của Tòa án khi bảo vệ quyền và lợi ích trong tố tụng dân sự
Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do không có điều luật để áp dụng. Việc giải quyết vụ việc dân sự quy định tại khoản này được thực hiện theo các nguyên tắc do Bộ luật dân sự và Bộ luật này quy định. Vụ việc dân sự không có điều luật để áp dụng là vụ việc dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự nhưng tại thời gian vụ việc dân sự đó phát sinh và đơn vị, tổ chức, cá nhân yêu cầu Tòa án giải quyết không có điều luật để áp dụng.
- Thứ nhất, về điều kiện tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự:
Không phải khi có đơn khởi kiện của chủ thể yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự là Tòa án đều thụ lý giải quyết. Tòa án chỉ có trách nhiệm thụ lý vụ việc dân sự nếu vụ việc dân sự đó thoả mãn đồng thời các điều kiện sau đây:
– Quan hệ được yêu cầu giải quyết thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự tức là các quyền, nghĩa vụ về nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm;
– Quan hệ được yêu cầu giải quyết thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án theo thủ tục tố tụng dân sự, tức là quan hệ đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của các đơn vị, tổ chức khác hoặc không được giải quyết ở Tòa án theo thủ tục khác như thủ tục tố tụng hành chính, thủ tục tố tụng hình sự, thủ tục tuyên bố phá sản;
– Quan hệ được yêu cầu giải quyết không có điều luật áp dụng.
- Thứ hai, nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp không có điều luật áp dụng:
Theo Điều 45 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, việc giải quyết vụ việc dân sự không có luật áp dụng được thực hiện theo thứ tự sau:
– Áp dụng tập cửa hàng;
– Áp dụng tương tự pháp luật;
– Áp dụng nguyên tắc cơ bản của pháp luật, án lệ, lẽ công bằng.
- Thứ ba, ảnh hưởng của nguyên tắc tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do không có điều luật áp dụng tới các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015: Theo quy định của khoản 2 Điều 4 có ảnh hưởng sâu sắc tới các quy định về thẩm quyền dân sự của tòa án. Khi Toà án giải quyết vụ việc không có điều luật áp dụng thì bắt buộc phải có sự tham gia của Viện kiểm sát theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 nhằm đảm bảo Toà án giải quyết vụ việc dân sự này đúng đắn, chính xác.
Trên đây là toàn bộ nội dung giới thiệu của chúng tôi về Điều 4 Bộ luật tố tụng dân sự, cũng như các vấn đề pháp lý có liên quan. Trong quá trình nghiên cứu nếu như quý bạn đọc còn câu hỏi và có nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn của LVN Group về Điều 4 Bộ luật tố tụng dân sự vui lòng liên hệ với chúng tôi qua các thông tin sau:
Hotline: 1900.0191
Gmail: info@lvngroup.vn
Website: lvngroup.vn