Điều 443 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

Trong một số trường hợp, vì một số lý do nhất định mà đơn vị điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải ra quyết định tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, đình chỉ bị can, bị cáo. Điều 443 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định về vấn đề này. Để nghiên cứu Điều 443 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định thế nào về tạm đình chỉ điều tra, đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, đình chỉ bị can, bị cáo; hãy theo dõi nội dung trình bày dưới đây của LVN Group.

1. Các trường hợp tạm đình chỉ điều tra.

Tạm đình chỉ điều tra theo hướng dẫn tại Điều 443 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là việc tạm ngừng tiến hành điều tra với bị can là pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Việc tạm đình chỉ điều tra đối với pháp nhân xuất phát từ những lý do khách quan khiến cho Cơ quan điều tra mặc dù chưa đưa ra được kết luận cuối cùng về kết quả điều tra vụ án nhưng nếu tiếp tục tiến hành điều tra thì sẽ vi phạm thời hạn luật định.

Căn cứ theo hướng dẫn tại Điều 443 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì các trường hợp ra quyết định tạm đình chỉ điều tra gồm: khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng không có kết quả mà đã hết thời hạn điều tra.

Mặc dù việc điều tra vụ án đã bị tạm đình chỉ nhưng việc giám định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả. Kết quả của việc giám định, định giá tài sản, kết quả hoạt động tương trợ tư pháp sẽ là căn cứ cần thiết để Cơ quan điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định phục hồi điều tra hoặc đình chỉ điều tra.

2. Các trường hợp đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, đình chỉ bị can, bị cáo.

Căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 443 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì đơn vị điều tra, đơn vị được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra ra quyết định đình chỉ điều tra. Còn Viện kiểm sát, Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉnh vụ án, đình chỉ bị can, bị cáo là pháp nhân.

Các trường hợp ra quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, đình chỉ bị can, bị cáo theo khoản 2 Điều 443 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 gồm: 

– Không có sự việc phạm tội;

– Hành vi của pháp nhân không cấu thành tội phạm;

– Hành vi phạm tội của pháp nhân đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;

– Hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được pháp nhân thực hiện tội phạm;

– Hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự.

Theo đó, không có sự việc phạm tội có thể là thông tin về tội phạm là không chính xác, hoàn toàn không có sự việc xảy ra như thông tin mà các đơn vị có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận hoặc có sự việc xảy ra như nhưng sự việc đó không có dấu hiệu của tội phạm.

– Hành vi của pháp nhân không cấu thành tội phạm: Cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu pháp lý đặc trưng cho một tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự. Hành vi không cấu thành tội phạm là hành vi của pháp nhân nào đó không thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý của một cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự.

– Hành vi phạm tội của của pháp nhân đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp lực pháp luật: Theo nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm được quy định tại Điều 14 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì các đơn vị có thẩm quyền tiến hành tố tụng không được khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với người mà hành vi của họ đã có bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi đã xác định được người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật, thì đơn vị có thẩm quyền tiến hành tố tụng không được khởi tố vụ án hình sự, trừ trường hợp họ thực hiện một hành vi khác mà Bộ luật Hình sự coi là tội phạm.

Hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được pháp nhân thực hiện tội phạm: Thời hạn điều tra là khoảng thời gian luật định mà Cơ quan điều tra có thẩm quyền được tiến hành điều tra đối với một vụ án hình sự. Hết thời hạn điều tra quy định tại điều này, Cơ quan điều tra phải ra các văn bản tố tụng nhất định.

Thời hạn điều tra được quy định căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, hay nói cách khác, căn cứ vào sự phân loại tội phạm. Tội phạm càng nghiêm trọng thì thời hạn điều tra càng dài và ngược lại.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 172 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì thời hạn điều tra vụ án hình sự là không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 đối với tội phạm nghiêm trọng, đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, thời hạn này là không quá 04 tháng.

Trường hợp vụ án có tính chất phức tạp thì có thể gia hạn điều tra. Thời hạn gia hạn điều tra cũng được quy định dựa trên sự phân loại tội phạm, cụ thể theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 173 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì:

– Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 01 tháng;

– Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 02 tháng;

– Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 03 tháng;

– Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng.

Hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được pháp nhân thực hiện tội phạm là căn cứ để đỉnh chỉ vụ án.

– Hết thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự: Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn do Bộ luật Hình sự quy định cho phép đơn vị có thẩm quyền được tiến hành các hoạt động truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc xác định được đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là căn cứ không khởi tố vụ án hình sự.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 27 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được quy định như sau:

– 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng;

– 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng;

– 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng;

– 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.

Trên đây là toàn bộ nội dung nội dung trình bày giới thiệu về Điều 443 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Nội dung nội dung trình bày có giới thiệu về các trường hợp để tạm đình chỉ điều tra, các trường hợp đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, đình chỉ bị can, bị cáo. Nếu trong quá trình nghiên cứu, quý bạn đọc còn có vấn đề câu hỏi cần được trả lời hay có quan tâm đến các dịch vụ tư vấn do LVN Group gửi tới, vui lòng truy cập địa chỉ trang web sau đây: https://lvngroup.vn/ để được trả lời câu hỏi.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com