Cá nhân là những cá thể tồn tại một cách riêng biệt và độc lập, có quyền con người và được bảo vệ một cách phù hợp. Mỗi đơn vị, tổ chức, cá nhân đều cần có quyền tự quyết định và tự định đoạt của riêng mình. Pháp luật Việt Nam hiện hành tôn trọng quyền tự quyết định và tự định đoạt của mỗi chủ thể. Tại Điều 5 luật tố tụng dân sự có quy định cụ thể về vấn đề này nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự một cách trong quá trình tiến hành tố tụng.
1. Quyền quyết định của đương sự trong tố tụng dân sự
Khoản 1 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 ghi nhận Quyền quyết định của đương sự trong việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự. Căn cứ, đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
Vì vậy, căn cứ theo hướng dẫn này, đương sự có toàn quyền tự quyết định về việc có tiến hành khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự được không. Tuy nhiên, việc định đoạt của đương sự phải được tiến hành trong khuôn khổ mà pháp luật cho phép, sao cho không xâm hại đến tới các quyền tố tụng và quyền lợi hợp pháp của các chủ thế khác hoặc lợi ích của xã hội.
Đối với vụ án dân sự, quyền quyết định của chủ thể trong việc khởi kiện vụ án dân sự được pháp luật Việt Nam hiện hành thừa nhận trước hết tại khoản 1 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự và vấn đề này được ghi nhận cụ thể và chi tiết hơn tại Điều 186 Bộ luật tố tụng dân sự2015. Theo đó, các đơn vị, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người uỷ quyền hợp pháp tiến hành khởi kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Mặt khác, Nhà nước đã chính thức ghi nhận quyền khởi kiện của cá nhân, đơn vị tổ chức yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của chủ thể khác tại Điều 187 Bộ luật tố tụng dân sựđể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước.
Đối với việc dân sự, về bản chất, tuy không có tranh chấp trực tiếp giữa các bên, nhưng người yêu cầu giải quyết việc dân sự cũng phải chủ động như nguyên đơn trong vụ án dân sự. Họ được quyền đưa ra yêu cầu cho Tòa án giải quyết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên yêu cầu của họ chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu Tòa án công nhận được không công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt hoặc công nhận các quyền, nghĩa vụ của họ.
2. Trách nhiệm của Tòa án trong việc đảm bảo thực hiện quyền quyết định của đương sự trong tố tụng dân sự
Bên cạnh việc quy định quyền tự định đoạt của đương sự trong việc tham gia tố tụng, khoản 1 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự vẫn tiếp tục kế thừa và quy định rõ trách nhiệm của đơn vị tiến hành tố tụng, tức Tòa án, trong việc đảm bảo cho đương sự thực hiện được quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 ghi nhận Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. Quy định này được hiểu rằng Tòa án chỉ được quyền thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự. Nếu như không có đơn khởi kiện, yêu cầu của đương sự thì Tòa án không được phép thụ lý và giải quyết vụ việc dân sự đó. Quy định trên đã chứng tỏ nguyên tắc luôn tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự, việc thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự hoàn toàn dựa trên sự định đoạt, ý chí chủ quan của đương sự.
Bên cạnh đó, trong quá trình giải quyết, Tòa án chỉ được phép xem xét, giải quyết vụ việc trong phạm vi yêu cầu của đương sự thể hiện trong đơn khởi kiện, đơn yêu cầu mà không được phép giải quyết thiếu hoặc vượt quá phạm vi yêu cầu của đương sự. Trách nhiệm của Tòa án đó là giải quyết đúng và trọn vẹn yêu cầu của đương sự, đảm bảo cho đương sự được thực hiện quyền tự định đoạt, không hạn chế các đương sự thực hiện các quyền này và đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích khác của đương sự. Nếu các đương sự chưa hiểu, chưa biết mình có quyền và nghĩa vụ tố tụng thì Tòa án có trách nhiệm giải thích cho họ biết về các quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ, giúp đương sự thực hiện tốt hơn quyền tự định đoạt của mình, có như vậy thì mới đảm bảo được nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong vụ việc dân sự cũng như đảm bảo nguyên tắc đó được thực thi trên thực tiễn.
3. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc chấm dứt, thay đổi yêu cầu hoặc thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự
Khoản 2 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 ghi nhận Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc chấm dứt, thay đổi yêu cầu hoặc thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự. Căn cứ “Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội.”
Vì vậy pháp luật thừa nhận quyền tự định đoạt của đương sự trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nếu việc thực hiện quyền đó không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội.
3.1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc chấm dứt, thay đổi yêu cầu
Căn cứ hóa quy định tại khoản 2 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự2015 quy định:
- Nguyên đơn có quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu khởi kiện
- Bị đơn cũng có quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu phản tố,
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu độc lập.
Tuy nhiên, tùy thuộc vào từng giai đoạn của quá trình tố tụng mà việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện có thể được Tòa án chấp nhận được không chấp nhận.
Trước khi mở phiên Tòa sơ thẩm, quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu là quyền tuyệt đối của đương sự, theo đó việc đương sự thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện không bị hạn chế.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, quyền tự định đoạt của đương sự trong vấn đề thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu sẽ bị hạn chế, điển hình như tại phiên Tòa sơ thẩm, theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu của đương sự chỉ được chấp nhận nếu việc thay đổi, bổ sung không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố của bị đơn hoặc yêu cầu độc lập ban đầu, hay tại Điều 299 Bộ luật tố tụng dân sự trước khi mở phiên Tòa phúc thẩm hoặc tại phiên Tòa phúc thẩm, nguyên đơn chỉ được phép rút đơn khởi kiện khi có sự đồng ý của bị đơn. Việc quy định như vậy nhằm góp phần đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự khác trong quá trình tham gia tố tụng.
Bên cạnh đó, pháp luật tố tụng dân sự hiện hành có quy định các trường hợp thay đổi địa vị tố tụng khi các đương sự trong vụ án tiến hành rút yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập theo hướng dẫn tại Điều 245 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 nhằm góp phần đảm bảo quyền tự định đoạt của các đương sự cũng như bảo vệ được các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác tham gia tố tụng.
3.2. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự
Xuất phát từ bản chất của quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động, các bên đương sự có thể thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp dân sự ở bất cứ một giai đoạn nào trong tố tụng dân sự. Cùng với đó, hòa giải được xem là một trong những thủ tục có ý nghĩa rất cần thiết nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết các tranh chấp đã phát sinh. Khoản 2 Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 đã ghi nhận quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thỏa thuận giải quyết vụ việc dân sự.
Căn cứ, theo hướng dẫn tại Điều 10 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 thì “Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo hướng dẫn của Bộ luật này”. Tuy nhiên, việc hòa giải phải đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự, xuất phát từ ý chí chủ quan, tự nguyện của chính đương sự, không ai có thể cưỡng ép, bắt buộc đương sự thỏa thuận trái với ý muốn của họ. Tòa án chỉ công nhận thỏa thuận của các đương sự nếu thỏa thuận đó là phù hợp với các quy định của pháp luật, không xâm phạm tới quyền và lợi ích của các chủ thể khác theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 205 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
Quyền tự định đoạt của đương sự còn thể hiện ở quyền tự thỏa thuận, dàn xếp, thương lượng với nhau về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án sau khi Tòa án đã thụ lý. Trong trường hợp này, Tòa án không phải là người chủ động đưa vụ án ra hòa giải mà các đương sự tự thương lượng, thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án. Việc các đương sự tự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án có thể được thực hiện ở mọi giai đoạn trong quá trình tố tụng.
Trên đây là toàn bộ nội dung giới thiệu của chúng tôi về Điều 61 Luật tố tụng hành chính, cũng như các vấn đề pháp lý có liên quan. Trong quá trình nghiên cứu nếu như quý bạn đọc còn câu hỏi và có nhu cầu sử dụng dịch vụ tư vấn của LVN Group về Điều 61 Luật tố tụng hành chính vui lòng liên hệ với chúng tôi qua các thông tin sau:
Hotline: 1900.0191
Gmail: info@lvngroup.vn
Website: lvngroup.vn