Theo quy định của Luật Tố tụng hành chính 2015, các đương sự khi tham gia tố tụng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau. Tuy nhiên, trên thực tiễn để tham gia tố tụng hành chính, có rất nhiều trường hợp các đương sự phải cần người uỷ quyền, trong đó bao gồm uỷ quyền theo pháp luật và uỷ quyền theo ủy quyền. Bài viết với nội dung dưới đây sẽ gửi tới cho quý bạn thông tin về người uỷ quyền được quy định theo điều 60 luật tố tụng hành chính 2015
1. Khái niệm người uỷ quyền trong tố tụng hành chính
1.1 Khái niệm người uỷ quyền
Theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015, uỷ quyền được hiểu là việc một người được gọi là người uỷ quyền nhân danh và vì lợi ích của người khác được gọi là người được uỷ quyền thực hiện việc xác lập hoặc thực hiện các giao dịch dân sự trong phạm vi uỷ quyền.
Người uỷ quyền theo pháp luật có thể hiểu là người do pháp luật hoặc người do đơn vị nhà nước có thẩm quyền quy định để uỷ quyền cho một cá nhân hay uỷ quyền cho một tổ chức nào đó thực hiện việc xác lập hoặc thực hiện các giao dịch hay hành vi dân sự, hành chính…
1.2 Phân loại người uỷ quyền trong tố tụng hành chính
Căn cứ theo hướng dẫn tại điều 60 luật tố tụng hành chính 2015, có thể phân người uỷ quyền trong tố tụng hành chính thành hai loại:
– Người uỷ quyền theo pháp luật: Là người uỷ quyền tham gia tố tụng hành chính để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo hướng dẫn của pháp luật. Tư cách đại trong trường hợp này không phục thuộc vào ý chí của đương sự mà phải tuân theo các quy định của pháp luật, trong đó:
+ Đối với cá nhân:
- Cha, mẹ đối với con chưa thành niên;
- Người giám hộ đối với người được giám hộ;
- Người được Tòa án chỉ định đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi;
+ Đối với tổ chức:
- Người đứng đầu đơn vị, tổ chức do được bổ nhiệm hoặc bầu theo hướng dẫn của pháp luật;
- Những người khác theo hướng dẫn của pháp luật.
– Người uỷ quyền theo ủy quyền: Là người uỷ quyền tham gia tố tụng hành chính để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo ủy quyền của đương sự, chỉ có thể xuất hiện trên cơ sở ý chí của đương sự và được biểu hiện cụ thể thông qua văn bản ủy quyền. Người uỷ quyền theo ủy quyền trong tố tụng hành chính phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên, không bị mất năng lực hành vi dân sự, được đương sự hoặc người uỷ quyền theo pháp luật của đương sự ủy quyền bằng văn bản.
– Mặt khác, cũng có thể xuất hiện nhóm người uỷ quyền thứ ba trong trường hợp đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự nếu họ không có người khởi kiện thì Viện kiểm sát có quyền kiến nghị Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú của người giám hộ đứng ra khởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đó.
2. Quy định về người uỷ quyền tại điều 60 luật tố tụng hành chính
So với Luật tố tụng hành chính năm 2010, điều 60 Luật tố tụng hành chính 2015 bổ sung quy định về người uỷ quyền theo pháp luật trong tố tụng hành chính đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; về người uỷ quyền theo ủy quyền của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân. Căn cứ
– Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, khi giải quyết vụ án hành chính có đương sự thuộc nhóm đối tượng này thì Tòa án chỉ định người uỷ quyền tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi của họ(khoản 2 Điều 60)
– Đối với hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân tham gia tố tụng hành chính thì các thành viên có thểủy quyền cho một thành viên; hoặc người khác làm uỷ quyền tham gia tố tụng hành chính; (khoản 3 Điều 60)
– Đối với người bị kiện là đơn vị, tổ chức hoặc người đứng đầu đơn vị, tổ chức chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình uỷ quyền. Người được ủy quyền phải tham gia vào quá trình giải quyết toàn bộ vụ án, thực hiện trọn vẹn các quyền và nghĩa vụ của người bịkiện theo hướng dẫn của Luật tố tụng hành chính. Đây là điểm mới rất đáng chú ý của Luật tố tụng hành chính năm 2015 về người uỷ quyền, bảo đảm cho các đơn vị tiến hành tố tụng giải quyết vụ án hành chính nhanh chóng và hiệu quả.
Bởi lẽ, từ thực tiễn thi hành Luật tố tụng hành chính năm 2010 những năm qua cho thấy người bị kiện là người đứng đầu đơn vị hành chính nhà nước thường ủy quyền cho cán bộ, công chức và thường là người không có thẩm quyền xem xét, giải quyết những việc liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện, thậm chí có trường hợp còn ủy quyền cho luật sư tham gia tố tụng, làm cho việc tổ chức đối thoại giữa các đương sự, việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ, tranh luận tại phiên tòa gặp khó khăn, không hiệu quả, việc giải quyết vụ án bị kéo dài, không bảo đảm để Tòa án xem xét, giải quyết khách quan, toàn diện vụ án.
Do không có thẩm quyền quyết định nên nhiều trường hợp có đủ cơ sở xác định quyết hành chính, hành vi hành chính rõ ràng trái pháp luật nhưng người uỷ quyền theo ủy quyền của người bị kiện không thể chủ động thỏa thuận với người khởi kiện hoặc chủ động sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ quyết định hành chính hoặc chấm dứt hành vi hành chính trái pháp luật bị khởi kiện
Trên đây là nội dung về điều 60 luật tố tụng hành chính 2015 quy định về người uỷ quyền. Quý bạn đọc có bất kỳ câu hỏi, khó khăn có thể liên hệ với công ty Luật LVN Group để được hỗ trợ, tránh các vấn đề ảnh hưởng tới quá trình hoạt động của bạn.