Trong một vụ án hình sự thì hành vi phạm tội không chỉ gây ra tổn hại cho bị hại mà còn gây ra tổn hại cho đối tượng khác như nguyên đơn dân sự. Điều này đặt ra vấn đề là tư cách tham gia tố tụng hình sự của nguyên đơn dân sự, điều kiện xác định một chủ thể có phải là nguyên đơn dân sự không, quyền và nghĩa vụ của họ được quy định trong luật thế nào và có điểm gì khác so với bị hại. Pháp luật có quy định những vấn đề này trong Điều 63 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Để làm rõ những vấn đề này, hãy theo dõi nội dung trình bày dưới đây của LVN Group để được trả lời câu hỏi.
1. Khái niệm về nguyên đơn dân sự.
Căn cứ theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 63 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì nguyên đơn dân sự là cá nhân, đơn vị, tổ chức bị tổn hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường tổn hại.
Dựa vào khái niệm trên có thể thấy điều kiện để một cá nhân, đơn vị, tổ chức được xác định là nguyên đơn dân sự gồm 2 điều kiện:
– Là cá nhân, đơn vị, tổ chức bị tổn hại do tội phạm gây ra;
– Có đơn yêu cầu bồi thường tổn hại.
Nếu theo một trong hai điều kiện này thì cá nhân, đơn vị, tổ chức đó không phải nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự.
Dựa vào khoản 4 Điều 189 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định về các nội dung chính của đơn khởi kiện có thể suy ra đơn yêu cầu bồi thường tổn hại sẽ gồm những nội dung chính sau:
– Ngày, tháng, năm làm đơn;
– Cơ quan có thẩm quyền giải quyết;
– Thông tin về người yêu cầu: họ tên, địa chỉ nơi cư trú, số điện thoại…
– Thiệt hại thực tiễn;
– Các khoản yêu cầu bồi thường tổn hại;
– Chữ ký người yêu cầu.
2. Quyền của nguyên đơn dân sự hoặc người uỷ quyền của họ:
Căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 63 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì nguyên đơn dân sự hoặc người uỷ quyền của họ có những quyền sau đây:
– Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều này;
– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
– Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá;
– Được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án;
– Yêu cầu giám định, định giá tài sản theo hướng dẫn của pháp luật;
– Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật;
– Đề nghị mức bồi thường thiệt hại, biện pháp bảo đảm bồi thường;
– Tham gia phiên tòa; trình bày ý kiến, đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi người tham gia phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn; xem biên bản phiên tòa;
– Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
– Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của đơn vị, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
– Kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án về phần bồi thường tổn hại;
– Các quyền khác theo hướng dẫn của pháp luật.
3. Nghĩa vụ của nguyên đơn dân sự.
Căn cứ theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 63 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì nguyên đơn có những nghĩa vụ sau đây:
– Có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
– Trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến việc bồi thường tổn hại;
– Chấp hành quyết định, yêu cầu của đơn vị, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Nghĩa vụ trình bày trung thực những tình tiết liên quan đến việc bồi thường tổn hại giúp cho việc xác định bồi thường tổn hại của đơn vị có thẩm quyền tiến hành tố tụng trở nên khách quan và chính xác hơn nhằm đảm bảo tốt nhất quyền lợi của nguyên đơn dân sự và cả người bị buộc tội. Vì một số trường hợp nguyên đơn dân sự có thể sẽ trình bày thiếu trung thực để được bồi thường nhiều hơn gây ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của người bị buộc tội.
4. Sự khác biệt giữa bị hại và nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự.
Qua những phân tích về quyền và nghĩa vụ nêu trên có thể thấy nguyên đơn dân sự và bị hại trong vụ án hình sự đều có một số quyền và nghĩa vụ cơ bản giống nhau như sau:
– Được thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ;
– Đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
– Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan;
– Được thông báo kết quả điều tra, giải quyết vụ án
– Đề nghị thay đổi người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
– Tham gia phiên tòa, trình bày ý kiến;
– Tự bào chữa, nhờ người bảo vệ lợi ích hợp pháp cho mình;
– Phải có mặt theo giấy triệu tập của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
– Phải chấp hành quyết định, yêu cầu của đơn vị, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Tuy nhiên, nguyên đơn dân sự và bị hại trong vụ án hình sự có những điểm khác nhau cơ bản như sau:
– Về tổn hại xảy ra: bị hại là bị tổn hại về thề chất, tinh thần, tài sản, uy tín (nếu là đơn vị, tố chức); còn nguyên đơn dân sự chỉ bị tổn hại về tài sản.
– Về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và tổn hại xảy ra: Bị hại là bị tổn hại trực tiếp từ hành vi phạm tội, mục đích của người phạm tội là trực tiếp gây ra tổn hại cho chủ thể này. Còn nguyên đơn dân sự là bị tổn hại gián tiếp từ hành vi phạm tội, mục đích của người phạm tội không nhằm trực tiếp gây ra tổn hại cho chủ thể này.
Trên đây là toàn bộ nội dung giới thiệu về quy định nguyên đơn dân sự tại Điều 63 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Nội dung nội dung trình bày có giới thiệu về điều kiện xác định một chủ thể là nguyên đơn dân sự, quyền và nghĩa vụ của họ và sự khác biệt giữa nguyên đơn dân sự với bị hại trong vụ án hình sự. Nếu trong quá trình nghiên cứu, quý bạn đọc còn có vấn đề cần trả lời câu hỏi hay quý bạn đọc có quan tâm đến các dịch vụ tư vấn do LVN Group gửi tới, vui lòng truy cập địa chỉ trang web sau: https://lvngroup.vn/ để được tư vấn trả lời một cách chi tiết.