Điều 72 Hiến pháp Việt Nam 1992 - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Điều 72 Hiến pháp Việt Nam 1992

Điều 72 Hiến pháp Việt Nam 1992

Khác với mục đích ban đầu của việc ban hành pháp luật là nhằm trừng trị người có hành vi chống lại giai cấp thống trị, thậm chí không qua xét xử, ngày nay, Nhà nước ban hành pháp luật trước hết là để phòng ngừa, răn đe các hành vi   vi phạm pháp luật sau đó mới đến việc xử phạt những người thực hiện hành vi đã được Nhà nước, pháp luật tuyên bố cấm. Tuy vậy, việc xử phạt bất luận trong trường hợp nào cũng không được tùy tiện mà buộc phải tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật, sao cho bảo đảm quyền con người của cả bị hại, người bị tình nghi phạm tội, bị can, bị cáo và những người có liên quan khác.

Bài viết sau đây hãy cùng Luật LVN Group nghiên cứu rõ hơn về quy định của Hiến pháp tại Điều 72 Hiến pháp 1992.

Điều 72 Hiến pháp Việt Nam 1992

1. Quan niệm suy đoán vô tội

Suy đoán vô tội theo tiếng Anh là “presumption of innocence”. Thuật ngữ này còn có tên gọi khác là “the right to be presumed innocent”, với nghĩa là quyền được giả định vô tội, theo đó, người bị cáo buộc thực hiện một tội phạm được coi (được giả định) là không có tội cho đến khi đơn vị công tố thuyết phục được Tòa án rằng bị cáo đã phạm tội4.
Ngay từ năm 1948, trong văn kiện cần thiết đầu tiên của Liên hiệp quốc về quyền con người là Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người đã khẳng định: “Mỗi bị cáo dù đã bị buộc tội có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo luật pháp tại một phiên toà xét xử công khai với mọi bảo đảm biện hộ cần thiết”5.
Thể chế hóa quy định của Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người, khoản 2 Điều 14 Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị năm 1966 quy định: “Người bị buộc là phạm một tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi tội của người đó được chứng minh theo pháp luật”6. Đồng thời Công ước cũng nêu rõ: người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc nhận mình có tội.

2. Quy định của pháp luật Việt Nam theo Hiến pháp 1992

Theo Điều 72 Hiến pháp 1992 quy định như sau:

Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi không có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.

Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường tổn hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây tổn hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh.

Vì vậy, cho đến trước Hiến pháp 1992, pháp luật Việt Nam quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội chưa cụ thể và chưa bao hàm hết nội dung cơ bản của nguyên tắc suy đoán vô tội. Mặt khác, về mặt cách thức thì cả trong Hiến pháp và Bộ luật Hình sự cũng không có điều nào có tên gọi “suy đoán vô tội”. Ngay cả cụm từ “suy đoán vô tội” cũng chưa được quy định một cách chính thức trong văn bản quy phạm pháp luật mà mới chỉ được thể hiện trong các công trình nghiên cứu khoa học hoặc các văn bản, các cuộc trao đổi, hội thảo có tính phân tích, bình luận, diễn giải… pháp luật.

Hiến pháp 1992 và pháp luật Việt Nam trước đó quy định về nguyên tắc suy đoán vô tội mới chỉ bao hàm một nội dung (dấu hiệu), đó là không ai bị coi là có tội khi không có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật. Hay nói cách khác, người nào đó chỉ bị coi là có tội khi có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, những trường hợp bị kết án oan, phải chấp hành hình phạt, kể cả hình phạt tù thì cũng bị coi là có tội vì đã có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật. Hiện nay, người bị coi là có tội phải có đủ hai điều kiện: thứ nhất, việc phạm tội của người đó phải được chứng minh theo đúng trình tự của pháp luật; thứ hai, phải có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật đối với người đó. Vì vậy, thiếu một trong hai điều kiện trên thì người bị buộc tội vẫn được “coi” là không có tội. Với quy định này, pháp luật mở ra cơ hội cho người dù bị kết án oan vẫn có thể được coi là người không có tội vì việc thực hiện hành vi phạm tội chưa được chứng minh theo đúng trình tự luật định mà việc kết tội được thực hiện sai pháp luật, trong đó có cả trường hợp mớm cung, ép cung, dùng nhục hình bị pháp luật nghiêm cấm.

Việc khẳng định người nào đó có tội có nghĩa là có quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án tuyên người đó phạm tội theo đúng trình tự luật định với việc áp dụng trách nhiệm hình sự cũng như miễn trách nhiệm hình sự. Suy đoán vô tội diễn ra trong suốt quá trình tố tụng nhưng việc xác định người có tội bắt buộc phải được thực hiện bằng việc xét xử tại phiên tòa, nơi bảo vệ hữu hiệu nhất quyền và lợi ích của các tổ chức, cá nhân.

3. Quyền được bồi thường của người bị tổn hại theo hiến pháp

Công ước quốc tế về các Quyền dân sự và chính trị năm 1966 khẳng định, bất cứ người nào trở thành nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam cầm bất hợp pháp đều có quyền yêu cầu được bồi thường (Điều 9, Điều 14). Trên thế giới, ngày càng nhiều quốc gia ghi nhận quyền được bồi thường tổn hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự phù hợp với các chuẩn mực pháp lý quốc tế và tiến bộ xã hội. Việt Nam đã và đang triển khai đồng loạt các biện pháp hiệu quả nhất để thực thi tốt nhất các cam kết quốc tế bảo đảm quyền được bồi thường tổn hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự trong tố tụng hình sự.

Theo quy định tại khoản Điều 72 Hiến pháp 1992 thì:

Người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được bồi thường tổn hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây tổn hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh.

Vì vậy, quyền được bồi thường khi bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật là một quyền hiến định.

Trên đây là những phân tích về Điều 72 Hiến pháp 1992. Chúng tôi hy vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên để sử dụng trong công việc và cuộc sống. Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến giấy xác nhận tình trạng hôn nhân; thủ tục tạm ngừng kinh doanh hay cách soạn thảo mẫu hồ sơ tạm ngừng kinh doanh…; mời quý khách hàng liên hệ đến hotline của Công ty Luật LVN Group để được hỗ trợ kịp thời. Công ty Luật LVN Group – Đồng hành pháp lý cùng bạn.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com