Điều 79 Bộ luật tố tụng hình sự  - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Điều 79 Bộ luật tố tụng hình sự 

Điều 79 Bộ luật tố tụng hình sự 

Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ra đời đã có nhiều quy định mới về người bào chữa. Theo đó, Người bào chữa tham gia vào quá trình giải quyết vụ án không chỉ để bảo vệ lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội mà còn góp phần vào việc xác định sự thật khách quan của vụ án, tránh oan sai trong quá trình giải quyết vụ án. Vậy Cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm thế nào trong việc thông báo cho người bào chữa về thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động tố tụng? Để trả lời vấn đề này, Luật LVN Group xin gửi tới quý bạn đọc nội dung trình bày:Trách nhiệm thông báo cho người bào chữa trong Bộ luật TTHS 2015”.

1. Người bào chừa là gì?

Người bào chữa là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc đơn vị có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được đơn vị, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa (Điều 72 BLTTHS).

2. Người bào chữa được thông báo trước thời gian tiến hành hoạt động tố tụng

Trước đây, khoản 2 Điều 58 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 quy định người bào chữa có quyền có mặt khi lấy lời khai, hỏi cung người được bào chữa nhưng thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung bị can do người có thẩm quyền tiến hành tố tụng quyết định. BLTTHS năm 2003 cũng chỉ quy định người bào chữa có quyền đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian, địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can, không quy định báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, không quy định trách nhiệm của đơn vị có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc thông báo, thời gian thông báo cho người bào chữa về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung nên thực tiễn áp dụng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, gây cản trở cho người bào chữa có mặt khi lấy lời khai, hỏi cung người được bào chữa, hoặc trong nhiều trường hợp, thời gian thông báo quá gần với thời gian lấy lời khai, hỏi cung nên mặc dù nhận được thông báo nhưng người bào chữa không kịp có mặt.
Đến BLTTHS năm 2015, tại khoản 1 Điều 79 quy định rõ về trách nhiệm thông báo cho người bào chữa, trong đó quy định đơn vị có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải báo trước một thời gian hợp lý cho người bào chữa về thời gian, địa điểm tiến hành các hoạt động tố tụng mà họ có quyền tham gia theo hướng dẫn của BLTTHS năm 2015. Quy định này nhằm bảo đảm thực hiện quyền của người bào chữa khi đơn vị có thẩm quyền tiến hành tố tụng lấy lời khai, hỏi cung người được bào chữa và các hoạt động tố tụng khác theo hướng dẫn.

3. Tiến hành hoạt động tố tụng trong trường hợp người bào chữa vắng mặt

Theo khoản 2 Điều 79 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 đã quy định trong trường hợp người bào chữa đã được đơn vị có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước mà không có mặt thì hoạt động tố tụng vẫn được tiến hành, trừ trường hợp:

3.1. Người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng

Người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan thì Tòa án phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa.
Nếu người bào chữa vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan hoặc được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử.

3.2. Người bào chữa vắng mặt là người bào chữa theo chỉ định

Trường hợp bị cáo bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mà Bộ luật hình sự (BLHS) quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình; bị cáo là người có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi mà người bào chữa vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo hoặc người uỷ quyền của bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa thì phiên tòa vẫn được xét xử.

4. Bảo đảm sự có mặt của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi tiến hành các hoạt động tố tụng

Căn cứ theo Điều 11, Thông tư 46/2019/TT-BCA quy định về trách nhiệm của lực lượng Công an nhân dân trong việc thực hiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định truy nã, người bị tạm giữ, bị can; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố do Bộ trưởng Bộ Công an ban hành quy định việc Bảo đảm sự có mặt của người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khi tiến hành các hoạt động tố tụng
1) Cơ quan đang thụ lý vụ án, vụ việc phải báo trước về thời gian, địa điểm tiến hành tố tụng mà người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền tham gia tối thiểu 24 giờ đối với trường hợp người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cư trú cùng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với đơn vị đang thụ lý vụ án, vụ việc, 48 giờ đối với trường hợp người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cư trú khác tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với đơn vị đang thụ lý vụ án, vụ việc trước ngày tiến hành hoạt động tố tụng. Trường hợp người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp nhất trí với Điều tra viên, Cán bộ điều tra thời hạn sớm hơn thì việc thực hiện các hoạt động tố tụng được thực hiện theo thỏa thuận đó.
2) Trường hợp người bào chữa đã được đơn vị đang thụ lý vụ án báo trước mà không có mặt thì hoạt động tố tụng vẫn được tiến hành, trừ trường hợp quy định tại Điều 291 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Trường hợp người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố đã được báo trước mà không có mặt thì hoạt động tố tụng vẫn được tiến hành.
3) Khi lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can, Điều tra viên, Cán bộ điều tra và người bào chữa phải thực hiện theo hướng dẫn của điểm b khoản 1 Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, nội quy Nhà tạm giữ, Trại tạm giam và các quy định pháp luật khác có liên quan. Nếu phát hiện người bào chữa vi phạm pháp luật thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải dừng ngay việc lấy lời khai, hỏi cung bị can và lập biên bản về việc này, báo cáo Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý. Trường hợp Điều tra viên, Cán bộ điều tra vi phạm pháp luật thì người bào chữa có quyền phản ánh vi phạm đến Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra.
Khi lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can nếu Điều tra viên đồng ý cho người bào chữa được hỏi thì phải ghi câu hỏi của người bào chữa, câu trả lời của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can vào biên bản lấy lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, biên bản hỏi cung bị can. Khi kết thúc việc lấy lời khai, hỏi cung bị can, Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải đọc lại hoặc đưa cho người bào chữa đọc lại biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung. Sau khi xác nhận đúng nội dung câu hỏi của người bào chữa, câu trả lời của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra yêu cầu người bào chữa ký vào biên bản. Trường hợp biên bản ghi chưa trọn vẹn, chưa chính xác nội dung câu hỏi và câu trả lời, người bào chữa có quyền đề nghị sửa đổi, bổ sung hoặc ghi ý kiến của mình trước khi ký vào biên bản.
4) Khi lấy lời khai người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, Điều tra viên, Cán bộ điều tra và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, kiến nghị khởi tố phải thực hiện theo hướng dẫn của điểm c khoản 3 Điều 83 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Trường hợp Điều tra viên, Cán bộ điều tra đồng ý cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, kiến nghị khởi tố được hỏi thì phải ghi câu hỏi của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, câu trả lời của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố vào biên bản lấy lời khai. Khi kết thúc việc lấy lời khai, Điều tra viên, Cán bộ điều tra phải đọc lại hoặc đưa cho người bào chữa đọc lại biên bản lấy lời khai, sau khi xác nhận đúng nội dung câu hỏi của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, câu trả lời của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra yêu cầu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố ký vào biên bản. Trường hợp biên bản ghi chưa trọn vẹn, chưa chính xác nội dung câu hỏi và câu trả lời, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố có quyền đề nghị sửa đổi, bổ sung hoặc ghi ý kiến của mình trước khi ký vào biên bản.
5) Khi người bào chữa đề nghị, Điều tra viên phải xác nhận thời gian công tác thực tiễn của người bào chữa tham gia tố tụng trong quá trình điều tra vụ án hình sự.

5. Dịch vụ tư vấn Luật LVN Group

Trên đây là thông tin quy định của pháp luật về Trách nhiệm thông báo cho người bào chữa trong Bộ luật TTHS 2015 mà Công ty Luật LVN Group gửi đến quý bạn đọc tham khảo. Nếu cần cung cấp thêm thông tin chi tiết quy định về tố tụng, quý khách vui lòng truy cập trang web: https://lvngroup.vn để được trao đổi cụ thể.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com