Điều 8 Bộ luật dân sự 2015 - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Điều 8 Bộ luật dân sự 2015

Điều 8 Bộ luật dân sự 2015

Căn cứ xác lập quyền dân sự là các căn cứ nhằm làm phát sinh các quyền dân sự của các nhân, tổ chức, cụ thể gồm các căn cứ như sau theo hướng dẫn tại Điều 8 Bộ luật dân sự năm 2015 (1) Hợp đồng, (2) hành vi pháp lý đơn phương, (3) Quyết định của Tòa án, đơn vị có thẩm quyền khác theo hướng dẫn của luật (4) Kết quả của lao động, sản xuất, kinh doanh, kết quả của hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, (5) Chiếm hữu tài sản, (6) Sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật, (7) Bị tổn hại do hành vi trái pháp luật (8) Thực hiện công việc không có ủy quyền, (9) Căn cứ khác do pháp luật quy định.

Thứ nhất: Hợp đồng

Hợp đồng là sự kiện pháp lý phổ biến nhất trong quan hệ dân sự được pháp luật dự liệu xảy ra trong thực tiễn sẽ làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ dân sự và có những hậu quả pháp lý nhất định. Sự kiện thông thường khác sự kiện pháp lý ở chỗ: nó không làm phát sinh những hậu quả pháp lý nhất định và cũng không có sự tác động của các quy phạm pháp luật dân sự để hình thành một quan hệ dân sự.

Thứ hai: Hành vi pháp lý đơn phương

Hành vi pháp lý đơn phương là căn cứ phát sinh nghĩa vụ theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 275 BLDS năm 2015. Hành vi pháp lý đơn phương là căn cứ xác lập quyền dân sự trong quan hệ hứa thưởng (Điều 570 BLDS năm 2015) và thi có giải (Điều 573 BLDS năm 2015).

Khoản 1 Điều 572 về trả thưởng BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp một công việc được hứa thưởng do một người thực hiện thì khi công việc hoàn thành, người thực hiện công việc đó được nhận thưởng”. Tương tự, khoản 3 Điều 573 về thi có giải BLDS 2015 quy định: “Người đoạt giải có quyền yêu cầu người tổ chức thi trao giải thưởng đúng mức đã công bố”. Vì vậy, nếu các hành vi pháp lý đơn phương đáp ứng các quy định từ Điều 570 đến Điều 573 BLDS năm 2015, sẽ là căn cứ xác lập quyền dân sự về nhận thưởng, nhận giải thưởng. Hành vi pháp lý đơn phương là căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 275 BLDS năm 2015.

Thứ ba: Quyết định của Tòa án, đơn vị có thẩm quyền khác theo hướng dẫn của luật

Trong pháp luật dân sự, căn cứ xác lập quyền dân sự có thể là Quyết định của Tòa án, đơn vị có thẩm quyền khác theo hướng dẫn của luật hoặc thời hạn. Thời hạn là sự kiện pháp lý đặc biệt do pháp luật dân sự quy định mà một chủ thể có thể: được hưởng quyền dân sự, được miễn trừ nghĩa vụ dân sự hoặc bị mất quyền khởi kiện. Với ý nghĩa này, trong nhiều trường hợp thời hạn là sự kiện pháp lý có ý nghĩa làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật dân sự.

Thứ tư: Kết quả của lao động, sản xuất, kinh doanh; kết quả của hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ

Theo quy định của BLDS năm 2015, kết quả của lao động, sản xuất, kinh doanh; kết quả của hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ cũng là căn cứ xác lập quyền dân sự phổ biến trong đời sống xã hội. Đây cũng là căn cứ xác lập quyền sở hữu theo hướng dẫn tại Điều 222 BLDS năm 2015.

Điều 222 BLDS năm 2015 quy định: “Người lao động, người tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp có quyền sở hữu đối với tài sản có được từ lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, kể từ thời gian có được tài sản đó. Người tiến hành hoạt động sáng tạo có quyền sở hữu đối với tài sản có được từ hoạt động sáng tạo theo hướng dẫn của Luật sở hữu trí tuệ”.

Thứ năm: Chiếm hữu tài sản

Chiếm hữu tài sản là một trong những căn cứ khá phổ biến để xác lập quyền dân sự. Điều 186 BLDS năm 2015 quy định cụ thể quyền chiếm hữu của chủ sở hữu: “Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, chi phối tài sản của mình nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”.

Mặt khác, quyền chiếm hữu và quyền sở hữu có thể là căn cứ để xác lập quyền dân sự do các sự kiện mà pháp luật dân sự khi không xác định được chủ sở hữu hoặc do bị chôn giấu, đánh rơi, bỏ quên theo Điều 229 BLDS năm 2015.

Cơ sở của việc xác lập quyền chiếm hữu không phải chỉ đơn giản là các hành vi phát hiện, tìm thấy, nhặt được tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm.

Ngoài những sự kiện trên, pháp luật quy định phải tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm được tìm thấy mà không có hoặc không xác định được ai là chủ sở hữu thì sau khi trừ chi phí tìm kiếm, bảo quản, quyền sở hữu đối với tài sản này.

Để chiếm hữu tài sản là căn cứ xác lập quyền dân sự, trong một số trường hợp cụ thể phải tuân thủ các quy định trong BLDS năm 2015.

Thứ sáu: Sử dụng tài sản, được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật

Theo nguyên lý trao đổi ngang giá của pháp luật dân sự, thì đa phần quan hệ dân sự phát sinh được phát sinh trên cơ sở hợp đồng – một căn cứ phổ biến làm phát sinh quan hệ dân sự. Vì vậy người chiếm hữu, người sử dụng tài sản của người khác mà không có căn cứ pháp luật thì phải hoàn trả cho chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản đó; nếu không tìm được chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản thì phải giao cho đơn vị nhà nước có thẩm quyền.

Vì vậy, người chiếm hữu, người sử dụng tài sản của người khác mà không có căn cứ pháp luật; người được lợi về tài sản mà không có căn cứ pháp luật làm cho người khác bị tổn hại sẽ là căn cứ xác lập quyền yêu cầu hoàn trả cho chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản đó theo hướng dẫn của pháp luật trong quan hệ dân sự này.

Tuy nhiên, khi người chiếm hữu, người được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật đáp ứng các điều kiện trên đây được pháp luật công nhận quyền sở hữu thì không phát sinh quyền yêu cầu hoàn trả đối với chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản đó.

Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật là căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ theo hướng dẫn của pháp luật.

Thứ bảy: Bị tổn hại do hành vi trái pháp luật

Một chủ thể khi bị tổn hại do hành vi trái pháp luật của người khác gây ra theo các căn cứ quy định tại Điều 584 BLDS năm 2015 cũng là căn cứ xác lập quyền dân sự về yêu cầu bồi thường tổn hại. Việc bồi thường tổn hại được thực hiện theo nguyên tắc được quy định tại Điều 585 BLDS năm 2015.

Tuy nhiên, quyền dân sự về yêu cầu bồi thường tổn hại phải đang còn thời hiệu theo hướng dẫn tại Điều 588 BLDS năm 2015: “Thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường tổn hại là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”.

Bị tổn hại do hành vi trái pháp luật cũng là căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 275 BLDS năm 2015.

Thứ tám: Thực hiện công việc không có uỷ quyền

Thực hiện công việc không có uỷ quyền cũng là một trong những căn cứ xác lập quyền dân sự.

Trong quan hệ dân sự này, khi “người có công việc được thực hiện phải tiếp nhận công việc khi người thực hiện công việc không có ủy quyền bàn giao công việc” phải trả cho người thực hiện công việc không có ủy quyền một khoản thù lao khi người này thực hiện công việc chu đáo, có lợi cho người đó. Đây là căn cứ làm phát sinh của quyền của người thực hiện công việc không có uỷ quyền khi yêu cầu thanh toán thù lao.

Thực hiện công việc không có uỷ quyền cũng là căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 275 BLDS năm 2015.

Thứ chín: Căn cứ khác do pháp luật quy định

Ngoài những sự kiện pháp lý có tính chất khách quan kể trên, do quan hệ dân sự đa dạng, phong phú nên còn có những sự kiện mang tính chất chủ quan. Có điều này là do sự phức tạp của các quan hệ dân sự trong đời sống xã hội mà các nhà làm luật chưa thể dự liệu được, chẳng hạn do khoa học công nghệ phát triển nên các căn cứ xác lập quyền trong sở hữu trí tuệ, lĩnh vực công nghệ thông tin.

Để những quyền dân sự được xác lập được pháp luật dân sự bảo hộ, thì quy định có tính chất “mở” này là cần thiết. Vì vậy, khoản 3 Điều 8 BLDS năm 2015 vẫn kế thừa các bộ luật trước đó và quy định: “Những căn cứ khác do pháp luật quy định”.

Căn cứ khác do pháp luật quy định cũng là căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ theo hướng dẫn tại khoản 6 Điều 275 BLDS năm 2015.

Trên đây là toàn bộ nội dung giới thiệu của chúng tôi về quy định tại Điều 8 Bộ luật Dân sự năm 2015 gửi đến quý bạn đọc để cân nhắc. Trong quá trình nghiên cứu nếu như quý bạn đọc có câu hỏi cần trả lời, vui lòng liên hệ với chúng tôi.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com