Gia hạn thời hạn điều tra bổ sung [Chi tiết 2023] - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Gia hạn thời hạn điều tra bổ sung [Chi tiết 2023]

Gia hạn thời hạn điều tra bổ sung [Chi tiết 2023]

Gia hạn thời hạn điều tra bổ sung [Chi tiết 2023]

1. Quy định về gia hạn thời hạn điều tra bổ sung

Khi Viện Kiểm Sát trả lại hồ sơ để đơn vị điều tra tiến hành điều tra bổ sung. Đến khi hết thời hạn điều tra bổ sung nhưng đơn vị điều tra chưa làm xong các yêu cầu điều tra của đơn vị Viện Kiểm Sát thì có được gia hạn thời hạn điều tra bổ sung. 

Khoản 2 Điều 174 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung , điều tra lại như sau:

 “2. Trường hợp vụ án do Viện kiểm sát trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá 02 tháng; nếu do Tòa án trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá 01 tháng. Viện kiểm sát chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hai lần. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và Hội đồng xét xử chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần.

Thời hạn điều tra bổ sung tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra bổ sung.”

 Khoản 3 ĐIều 245 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 quy định về trả hồ sơ vụ án để điều tra bổ sung như sau:

 “3. Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện trọn vẹn yêu cầu nêu trong quyết định trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung của Viện kiểm sát; trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan mà không thực hiện được thì phải nêu rõ lý do bằng văn bản.

 Kết thúc điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra phải có bản kết luận điều tra bổ sung. Bản kết luận điều tra bổ sung phải ghi rõ kết quả điều tra bổ sung, quan điểm giải quyết vụ án. Nếu kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi cơ bản kết luận điều tra trước đó thì Cơ quan điều tra phải ra bản kết luận điều tra mới thay thế.

Việc chuyển hồ sơ vụ án kèm theo kết luận điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát; việc giao, nhận, gửi thông báo kết quả điều tra bổ sung được thực hiện theo hướng dẫn tại Điều 232 và Điều 238 của Bộ luật này.”

Vì vậy, đối với trường hợp khi hết thời hạn điều tra bổ sung, đơn vị điều tra phải có bản kết luận điều tra bổ sung và gửi đến Viện kiểm sát. Trong trường hợp này bạn có thể giải trình lý do chưa thực hiện xong việc điều tra bổ sung và gửi đến Viện Kiểm sát đề nghị xem xét gia hạn thời hạn điều tra bổ sung. Hiện nay, pháp luật tố tụng hình sự không quy định cụ thể thủ tục gia hạn thời hạn điều tra bổ sung, do đó, bạn nên trực tiếp liên hệ với Viện kiểm sát để đề nghị về việc gia hạn thời hạn điều tra bổ sung.

2. Thời hạn điều tra

Theo quy định tại điều 172 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì:

Thời hạn điều tra là thời gian do pháp luật quy định để đơn vị điều tra hoàn thành điều tra vụ án. Thời hạn điều tra được tính từ khi khởi tố vụ án cho đến ngày kết thúc điều tra. Trong trường hợp đơn vị điều tra tiếp nhận vụ án từ đơn vị điều tra khác hoặc từ đơn vị bộ đội biên phòng, đơn vị hải quan, đơn vị kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển, đơn vị kiểm ngư… thì thời hạn điều tra cũng được tính từ ngày đơn vị đó ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.

Thời hạn điều tra vụ án hình sự không được quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Nếu do tính chất phức tạp của vụ án cần phải có thêm thời gian để điều tra thì trong thời hạn mười ngày trước khi hết hạn điều tra, đơn vị điều tra phải làm văn bản đề nghị viện trưởng viện kiểm sát gia hạn điều ha.

Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:

Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá hai tháng.

Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng và lần thứ hai không quá hai tháng.

Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, mỗi lần không quá bốn tháng.

Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng.

Thẩm quyền gia hạn điều tra của viện kiểm sát cụ thể như sau:

Đối với tội phạm ít nghiêm trọng thì viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra. Trong trường họp vụ án được thụ lí ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra.

Đối với tội phạm nghiêm trọng thì viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai. Trong trường hợp vụ án được thụ lí điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, viện kiểm sát quân sự cấp quân khu được gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai.

Đối với tội phạm rất nghiêm trọng thì viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra lần thứ nhất, viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có thẩm quyền gia hạn điều tra lần thứ hai. Trong trường hợp vụ án được thụ lí điều tra tại cấp tỉnh và cấp quân khu thì viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai.

Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai; Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương gia hạn điều tra lần thứ ba.

Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp trung ương thì việc gia hạn điều tra thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương.

Vì vậy, thời hạn điều tra tối đa (kể cả gia hạn) đối với tội phạm ít nghiêm trọng là không quá bốn tháng, tội phạm nghiêm

trọng là không quá tám tháng, tội phạm rất nghiêm trọng là không quá mười hai tháng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là không quá mười sáu tháng. Quy định này đòi hỏi đơn vị điều tra phải nâng cao chất lượng công tác điều tra, nâng cao trình độ nghiệp vụ, pháp luật cho cán bộ điều tra, sử dụng đồng bộ các biện pháp điều tra do Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định để bảo đảm việc kết thúc điều tra đúng thời hạn.

Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà thời hạn gia hạn điều tra đã hết nhưng do tính chất phức tạp của vụ án không thể kết thúc việc điều tra thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể gia hạn thêm một lần không quá bốn tháng.

Đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn điều tra thêm một lần nữa không quá bốn tháng.

Khi đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm thì đơn vị điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra.

3. Thời hạn trong trường hợp án trả hồ sơ điều tra bổ sung 

Sau khi nhận hồ sơ vụ án, bản cáo trạng và thụ lý vụ án theo Điều 276 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) và trong thời hạn theo hướng dẫn của pháp luật tố tụng hình sự tại Điều 277 BLTTHS, Tòa án sẽ ra một trong các…

Sau khi nhận hồ sơ vụ án, bản cáo trạng và thụ lý vụ án theo Điều 276 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS) và trong thời hạn theo hướng dẫn của pháp luật tố tụng hình sự tại Điều 277 BLTTHS, Tòa án sẽ ra một trong các quyết định: Đưa vụ án ra xét xử, trả hồ sơ để điều tra bổ sung, tạm đình chỉ vụ án hoặc đình chỉ vụ án.

Theo đó, căn cứ Điều 280 BLTTHS và hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22 tháng 12 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc Phòng quy định việc phối hợp giữa các đơn vị tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ điều tra bổ sung (gọi tắt Thông tư liên tịch số 02/2017), Tòa án sẽ ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong trường hợp như thiếu chứng cứ, có hành vi phạm tội khác, có đồng phạm khác… Vấn đề cần bàn là trong trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra được tính thế nào? Theo khoản 2 Điều 174 BLTTHS “Trường hợp vụ án do Viện kiểm sát trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá 02 tháng; nếu do Tòa án trả lại để yêu cầu điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá 01 tháng”. Viện kiểm sát chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung hai lần. Thẩm phán, chủ tọa phiên tòa chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần và Hội đồng xét xử chỉ được trả hồ sơ để điều tra bổ sung một lần. “Thời hạn điều tra bổ sung tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra bổ sung”. Tuy pháp luật tố tụng hình sự quy định như vậy nhưng thực tiễn áp dụng thời hạn điều tra bổ sung vẫn còn quan điểm áp dụng không thống nhất:

Thứ nhất, sau khi Viện kiểm sát nhận quyết định và hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án, nếu quyết định yêu cầu điều tra bổ sung có căn cứ thì Viện kiểm sát sẽ xem xét, giải quyết yêu cầu điều tra bổ sung của Tòa án theo hai trường hợp thuộc khoản 1 Điều 246 BLTTHS, một là không cần phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra thì Viện kiểm sát trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra để bổ sung tài liệu, chứng cứ; hai là Viện kiểm sát không thể tự điều tra bổ sung được thì Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và chuyển ngay hồ sơ cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra. Vì vậy, khi căn cứ khoản 2 Điều 174 BLTTHS thì trường hợp Tòa án trả hồ sơ mà Viện kiểm sát xét thấy không cần phải trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra thì thời hạn Viện kiểm sát trực tiếp điều tra bổ sung là mấy tháng và kể từ ngày nào? Theo chuyên gia, thời hạn này là không quá 01 tháng kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được hồ sơ và quyết định yêu cầu điều tra bổ sung (xem mục 32, Công văn số 5024/VKSTC-V14 ngày 19 tháng 11 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc trả lời vướng mắc liên quan đến quy định của BLTTHS và nghiệp vụ THQCT, kiểm sát việc giải quyết vụ án hình sự trong ngành KSND).

Thứ hai, thực tiễn áp dụng cho thấy trường hợp Viện kiểm sát không thể tự điều tra bổ sung theo khoản 1 Điều 246 BLTTHS thì Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung vẫn còn xảy ra mâu thuẫn về cách tính thời hạn giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát vì có ý kiến cho rằng thời hạn điều tra bổ sung trong trường hợp này là 02 tháng tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra bổ sung nhưng cũng có ý kiến cho rằng 01 tháng. Theo chuyên gia, trong trường hợp này, thời hạn điều tra bổ sung là 01 tháng tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra bổ sung, bởi lẽ trường hợp này phải tính là Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung (theo tinh thần của Thông tư liên tịch số 02/2017 tại điểm d khoản 3 Điều 14 chứ không phải thuộc trường hợp Viện kiểm sát trực tiếp trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung theo Điều 245 BLTTHS).

Một vấn đề khác cần bàn là theo khoản 1 Điều 246 BLTTHS, Thông tư liên tịch số 02/2017 và Quy chế Công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự (Ban hành kèm theo Quyết định số 505/QĐ-VKSTC ngày 18 tháng 12 năm 2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao) chưa quy định thời hạn Viện kiểm sát xem xét hồ sơ do Tòa án trả để quyết định trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra, bổ sung tài liệu, chứng cứ hoặc ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Cơ quan điều tra. Mặt khác, luật cũng chưa quy định trường hợp Viện kiểm sát sau khi đã trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra nhưng không thể điều tra bổ sung được (do vấn đề khách quan) thì Viện kiểm sát mới ra quyết định trả hồ sơ cho đơn vị điều tra để điều tra bổ sung được được không? Do không có quy đinh cụ thể về thời hạn này nên việc áp dụng vẫn còn tùy nghi và có thể kéo dài thời hạn tố tụng.

Bên cạnh đó, cần chú ý rằng thời hạn chuẩn bị xét xử đối với trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung được quy định giới hạn trong thời hạn theo khoản 2 và khoản 3 Điều 277 BLTTHS. Tuy nhiên, thời hạn để Viện kiểm sát ra bản cáo trạng mới thay thế bản cáo trạng trước đó trong trường hợp kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi nội dung cáo trạng hoặc ra quyết định đình chỉ vụ án cũng chưa được pháp luật quy định cụ thể. Do pháp luật chưa quy định nên thực tiễn cho thấy Kiểm sát viên áp dụng đồng nhất thời hạn này với thời hạn quyết định việc truy tố theo Điều 240 BLTTHS để xử lý vụ án.

Từ những vấn đề đã trao đổi trên, pháp luật cần quy định cụ thể hoặc có văn bản hướng dẫn thống nhất trong trường hợp Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung để đơn vị tiến hành tố tụng áp dụng một cách thống nhất, hạn chế việc kéo dài thời hạn tố tụng.

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com