1. Phạm tội chưa đạt là gì?
Theo quy định tại Điều 15 Bộ luật hình sự (BLHS) 2015 quy định: “Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt”.
Căn cứ quy định trên có thể rút ra các dấu hiệu xác định trường hợp phạm tội chưa đạt như sau:
– Dấu hiệu thứ nhất: Trong trường hợp phạm tội chưa đạt, người phạm tội đã bắt đầu thực hiện tội phạm, thể hiện ở việc người phạm tội đã thực hiện những hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm được quy định tại điều luật cụ thể của Bộ luật hình sự. Đây là dấu hiệu phân biệt giữa giai đoạn phạm tội chưa đạt với giai đoạn chuẩn bị phạm tội:
– Dấu hiệu thứ hai: Trong phạm tội chưa đạt, người phạm tội không thực hiện được tội phạm đến cùng. Thuật ngữ “không thực hiện được đến cùng” ở đây không có nghĩa là không thực hiện được kết quả cuối cùng mà người phạm tội đã đặt ra mà phải được hiểu là hành vi phạm tội mà người phạm tội thực hiện đã không thỏa mãn hết các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của tội phạm cụ thể được quy định tại điều luật Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự.
– Dấu hiệu thứ ba: Trong trường hợp phạm tội chưa đạt, người phạm tội không thực hiện được đến cùng tội phạm là do những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội.
Khi đã bắt tay vào việc thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội mong muốn thực hiện được đến cùng hành vi phạm tội của mình.
2. Các loại tội phạm chưa đạt
Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, các trường hợp phạm tội chưa đạt được phân thành các loại khác nhau.
-
Căn cứ vào mục đích thực hiện của hành vi phạm tội gồm: Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt hoàn thành.
-
Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp phạm tội chưa đạt, trong đó người phạm tội chưa thể thực hiện được hết những hành vi mà người đó cho là cần thiết để hoàn thành tội phạm do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người đó. Ví dụ, muốn giết người, người phạm tội mới chém gây thương tích nạn nhân, định chém tiếp thì bị bắt giữ. Trong trường hợp này, người phạm tội biết rõ hành vi của mình chưa đủ để gây ra cái chết của nạn nhân.
-
Phạm tội chưa đạt hoàn thành là trường hợp phạm tội chưa đạt, trong đó người phạm tội cho rằng đã thực hiện được hết hành vi mà người đó cho là cần thiết để hoàn thành tội phạm nhưng tội phạm chưa hoàn thành được là do những nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người đó. Ví dụ, để thực hiện ý định giết người, người phạm tội đã chém nhiều nhát vào người nạn nhân. Cho rằng nạn nhân không chết do được phát hiện và đưa đi cấp cứu kịp thời.
-
Căn cứ vào nguyên nhân khách quan đặc biệt ngoài ý muốn của người phạm tội dẫn đến việc chưa đạt, phạm tội chưa đạt được phân thành phạm tội chưa đạt vô hiệu để phân biệt với các trường hợp phạm tội chưa đạt thông thường khác.
Phạm tội chưa đạt vô hiệu là trường hợp phạm tội chưa đạt, trong đó do sai lầm trong việc đánh giá về đối tượng tác động, công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm của người phạm tội nên tội phạm không thực hiện được đến cùng (tội phạm không hoàn thành được). Có thể xảy ra các trường hợp sau:
Một là, người phạm tội sai lầm trong việc đánh giá đối tượng tác động nên hoặc là không có đối tượng tác động (phá két đựng tiền của đơn vị nhưng tiền đã được chuyển đi nơi khác) hoặc đối tượng không có những đặc tính người phạm tội tưởng là có. Vid dụ: nổ súng vào một xác chết, tưởng là người đang ngủ; đưa hối lộ nhầm cho người không có chức vụ, quyền hạn,…)
Hai là, người phạm tội đánh giá sai lầm về tính năng, tác dụng của những công cụ, phương tiện mà mình sử dụng, cho rằng công cụ, phương tiện mà mình sử dụng sẽ đạt được kết quả nào đó nhưng không đạt được kết quả đó. Ví dụ: bắn, ném lựu đạn để thực hiện ý định giết người nhưng đạn, lựu đạn không nổ; đầu độc người khác bằng thứ bột vô hại nhưng lại tưởng là thuốc độc….
Về nguyên tắc, người thực hiện hành vi phạm tội chưa đạt vô hiệu vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.