Bộ luật Dân sự năm 2015 ra đời đã quy định rõ ràng về năng lực hành vi dân sự cũng như hạn chế năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Vậy, hạn chế năng lực hành vi dân sự là gì? Để trả lời vấn đề này, Luật LVN Group xin gửi đến quý bạn đọc nội dung trình bày: “Quy định pháp luật dân sự về hạn chế năng lực hành vi dân sự“.
1. Hạn chế năng lực hành vi dân sự là gì?
Hạn chế năng lực hành vi dân sự là tình trạng chủ thể quan hệ pháp luật dân sự không thể tự mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.
2. Một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự khi nào?
Khi người thành niên về nguyên tắc sẽ là người có năng lực hành vi dân sự trọn vẹn nhưng trong trường hợp một số cá nhân đó nếu được ứng xử như người có năng lực hành vi dân sự trọn vẹn thì có thể gây ảnh hưởng nghiêm họng tới những người có quyền, lợi ích liên quan đến mình nên nhà làm luật phải ghi nhận trường hợp hạn chế năng lực hành vi dân sự. Người hạn chế năng lực hành vi dân sự phải thoả mãn các điều kiện:
- Người nghiện ma tuý, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình. Điều kiện này nhấn mạnh việc nghiện các chất kích thích, bao gồm ma tuý và hậu quả phải là phá tán tài sản gia đình.
Theo Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính Phủ ghi nhận danh mục các chất ma tuý và tiền chất ma tuý, chất hướng thần, về cơ bản, đây là “chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng nghiện đổi với người sử dụng; chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nểu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối với người sử dụng”. Điểm khác biệt cơ bản giữa chất gây nghiện và chất hướng thần là “chất gây nghiện chỉ cần một lần sử dụng cũng dễ gây nghiện; chất hướng thần thì có thể dẫn đến tình trạng nghiện nếu sử dụng nhiều lần”.
Chất ma tuý thường được chia thành ba nhóm là chất gây kích thích thần kinh dễ gây nghiện, chất gây ức chế thần kinh dễ gây nghiện và chất kích thích, ức chế thần kinh sử dụng nhiều lần mới gây nghiện. Cá nhân nghiện ma tuý hoặc các chất kích thích khác phải được xác định dựa trên kết quả giám định được ghi nhận theo hướng dẫn pháp luật hiện hành (Quy định hiện hành được ghi nhận tại Nghị định 94/2010/NĐ-CP ngày 9/9/2010 quy định vê tô chức cai nghiện ma tuý tại gia đình, cai nghiện ma tuý tại cộng đồng và Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-BLĐTBXH-BYT- BCA của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế và Bộ công an quy định chi tiêt và hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 94/2010/NĐ-CP). Bên cạnh đó, việc nghiện này phải là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến “phả tán tài sản gia đình”. Phá tán thường được hiểu làm cho “tan nát” hết về mặt của cải. Đối với phá tán tài sản gia đình có thể hiểu làm cho khối tài sản gia đình bị hao hụt nghiêm trọng, không còn đảm bảo sự ổn định trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của người thân của người nghiện. Để dẫn đến hậu quả này, người nghiện ma tuý, các chất kích thích khác có thể tham gia các giao dịch để bán tài sản, giao dịch khác làm cho khối tài sản gia đình bị giảm sút nghiêm trọng, thậm chí không còn tài sản nào cho gia đình;
- Người có quyền, lợi ích liên quan hoặc đơn vị, tổ chức hữu quan làm đơn yêu cầu Toà án tuyên bổ người này bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
- Trên cơ sở yêu cầu này, đương nhiên dựa trên tình hình thực tiễn mặc dù Điều 24 Bộ luật Dân sự không quy định phải có kết quả giám định của đơn vị y tế nhưng Toà án có thể căn cứ vào những xem xét thực tiễn để ra quyết định Tuyên bố cá nhân này bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Sau khi có quyết định tuyên bố một cá nhân bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì chính trong quyết định này, Toà án sẽ chỉ định người uỷ quyền cho pháp luật của cá nhân này. Các giao dịch của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà liên quan đến tài sản thì phải được người uỷ quyền đồng ý. Nếu người uỷ quyền không đồng ý, người uỷ quyền có quyền yêu cầu Toà án tuyên giao dịch đó vô hiệu (Điều 125 Bộ luật Dân sự năm 2015). Những giao dịch mà phục vụ đời sống sinh hoạt hàng ngày hay những giao dịch không liên quan đến tài sản thì vẫn do chính người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thực hiện, tự chịu trách nhiệm.
Khi không còn căn cứ để tuyên bố người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, tức là người này không còn bị nghiện ma tuý, chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản gia đình thì chính cá nhân này hoặc người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của đơn vị, tổ chức hữu quan sẽ làm đơn yêu cầu để Toà án ra quyết định huỷ bỏ quyết định đã tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.
3. Hạn chế năng lực hành vi dân sự
Căn cứ theo Điều 24 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định hạn chế năng lực hành vi dân sự như sau:
1) Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của đơn vị, tổ chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Tòa án quyết định người uỷ quyền theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi uỷ quyền.
2) Việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản của người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người uỷ quyền theo pháp luật, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác.
3) Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của đơn vị, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự.
Vì vậy, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là người thành niên có năng lực hành vi dân sự, tuy nhiên do họ bị nghiện ma túy hoặc các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình nên họ có thể bị yêu cầu tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Yêu cầu tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chỉ được thực hiện bởi người có quyền, lợi ích liên quan, đơn vị, tổ chức hữu quan có mối quan hệ với người đó. Tòa án cũng là đơn vị duy nhất có thẩm quyền ra quyết định tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
4. So sánh hạn chế và mất năng lực hành vi dân sự
Sự giống nhau giữa hạn chế và mất năng lực hành vi dân sự:
Hai trường hợp này đều được quy định chi tiết tại Bộ luật Dân sự năm 2015. Căn cứ, hạn chế năng lực hành vi dân sự được nêu tại Điều 24 còn mất năng lực hành vi dân sự được quy định tại Điều 22 Bộ luật Dân sự.
Mặt khác, một người chỉ được coi là bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự khi có quyết định tuyên bố của Tòa án.
Đồng thời, khi không còn căn cứ cho việc hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự, Tòa án cũng phải ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố trước đó.
Bên cạnh đó, khi một cá nhân đã bị Tòa án tuyên bố hạn chế hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì không thể tự mình tham gia các giao dịch dân sự mà bắt buộc phải được thực hiện bởi người uỷ quyền hợp pháp của người này.
Sự khác nhau giữa hạn chế và mất năng lực hành vi dân sự
5. Dịch vụ tư vấn luật LVN Group
Trên đây là thông tin về Quy định pháp luật dân sự về hạn chế năng lực hành vi dân sự mà Công ty Luật LVN Group gửi đến quý bạn đọc tham khảo. Nếu cần cung cấp thêm thông tin chi tiết quy định về dân sự, quý khách vui lòng truy cập trang web: https://lvngroup.vn để được trao đổi cụ thể.