Thời gian trước khi Luật Hôn nhân và gia đình ra đời thì pháp luật không quy định bắt buộc phải đăng ký kết hôn với đơn vị có thẩm quyền do đó vì một số lý do mà một số người chỉ về chung sống với nhau. Xét thấy phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thì pháp luật hiện nay vẫn công nhận hôn nhân thực tiễn của họ và bảo vệ trước pháp luật. Vậy để nghiên cứu xem hôn nhân thực tiễn là gì và các vấn đề có liên quan, hãy theo dõi nội dung trình bày dưới đây của LVN Group.
1. Hôn nhân thực tiễn là gì?
Hôn nhân thực tiễn là trường hợp nam nữ chung sống với nhau và thỏa mãn những điều kiện theo hướng dẫn của pháp luật nhưng không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn vẫn được pháp luật công nhận hôn nhân hợp pháp, được giải quyết quyền, lợi ích và nghĩa vụ như hôn nhân hợp pháp.
Hôn nhân thực tiễn là một thuật ngữ pháp lý để chỉ những trường hợp hai bên nam nữ chung sống trong quan hệ vợ chồng, đã được gia đình, xã hội thừa nhận nhưng chưa được đăng ký tại đơn vị hộ tịch, chưa được cấp giấy chứng nhận kết hôn.
2. Đặc điểm của hôn nhân thực tiễn
Dựa vào khái niệm suy ra hôn nhân thực tiễn có các đặc điểm sau:
– Hôn nhân thực tiễn là việc hai người trong mối quan hệ đó được pháp luật công nhận là vợ chồng nhưng giữa họ không có giấy đăng ký kết hôn do đơn vị có thẩm quyền cấp.
– Phải có chứng cứ chứng minh là hai người đã và đang chung sống như vợ chồng về mặt thực tiễn và thực sự coi nhau như vợ chồng. Chứng cứ đó có thể là việc họ có đời sống sinh hoạt chung, có tài sản chung, có con chung với nhau và được mọi người xung quanh thừa nhận là vợ chồng.
3. Quy định pháp luật về hôn nhân thực tiễn
Theo Thông tư TTLT 01/2001/TANDTC-VKSNDTC-BTP về việc thi hành luật hôn nhân và gia đình thì những trường hợp hai bên nam nữ không đăng ký kết hôn vẫn được pháp luật công nhận là hôn nhân thực tiễn, quyền và nghĩa vụ được áp dụng như hôn nhân hợp pháp như sau:
– Trường hợp thứ nhất, hai bên nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng, xác lập quan hệ vợ chồng với nhau trước ngày 03 tháng 01 năm 1987.
Các mối quan hệ hôn nhân của hai bên nam nữ hình thành từ thời gian Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực là thời gian pháp luật chưa thật sự đi sâu và phổ biến trong đời sống của người dân. Những mối quan hệ vợ chồng được hình thành dựa sự tự nguyện và tình cảm của hai bên, dựa trên phong tục tập cửa hàng của mỗi địa phương, và có nhiều cặp vợ chồng không trình diện với đơn vị chức năng mà chỉ sống chung với nhau mà không có giấy hôn thú. Nắm bắt được tình hình đó, nhằm bảo đảm sự ổn định về mặt nhân khẩu tại địa phương, quy định của pháp luật vẫn công nhận những cặp vợ chồng này có hôn nhân hợp pháp.
Hôn nhân hợp pháp của những cặp vợ chồng này được tính từ thời gian hai bên bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng ví dụ như: ngày hai bên nam nữ tổ chức đám cưới, kể từ ngày sống chung có người làm chứng của hai bên vợ chồng… Mặc dù những thời gian đó không thật sự rõ ràng để xác định nhưng pháp luật vẫn ghi nhận để có thể dễ dàng giải quyết khi có tranh chấp. Theo đó, mặc dù họ chưa làm thủ tục đăng ký kết hôn nhưng họ vẫn được đảm bảo quyền và nghĩa vụ hợp pháp của vợ chồng; khi làm thủ tục ly hôn hay có tranh chấp về vấn đề gì thì vẫn được đơn vị chức năng áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình để giải quyết.
– Trường hợp thứ hai, hai bên nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng sau thời gian Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 có hiệu lực đến trước ngày 01 tháng 01 năm 2001.
Đối với những trường hợp nam nữ sống chung với nhau kể từ sau khi Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 đến trước thời gian Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực, mặc dù họ có đủ điều kiện theo hướng dẫn của luật để kết hôn nhưng vẫn chưa làm thủ tục đăng ký thì bắt buộc phải làm thủ tục đăng ký kết hôn lên đơn vị có thẩm quyền để được công nhận là vợ chồng hợp pháp. Tuy nhiên trong thời gian mà họ đăng ký kết hôn sẽ không được mặc định là thời gian họ được xác lập mối quan hệ vợ chồng mà quan hệ của họ vẫn được công nhận kể từ ngày họ sống chung với nhau. Thời điểm họ về ở chung với nhau kể từ thời gian họ có sự sống chung với nhau, chăm sóc giúp đỡ và cùng nhau xây dựng gia đình hay tính từ mốc thời gian tổ chức lễ cưới, về chung sống với nhau có người khác chứng kiến. Theo đó nếu sống chung với nhau trong khoảng thời gian này mặc dù Luật hôn nhân và gia đình 1986 đã có hiệu lực nhưng pháp luật vẫn cho các cặp vợ chồng chưa đăng ký kết hôn một khoảng thời gian hợp lý để kịp thời bổ sung thủ tục này. Trong khoảng thời gian đó nếu có yêu cầu ly hôn hay giải quyết tranh chấp thì vẫn được áp dụng theo hướng dẫn pháp luật hiện hành để giải quyết. Theo quy định của Thông tư liên tịch 01/2001 thì những trường hợp này phải đăng ký kết hôn trong khoảng thời gian từ thời gian ngày 1 tháng 1 năm 2001 đến thời gian ngày 1 tháng 1 năm 2003.
Nếu như sau thời gian ngày 1 tháng 1 năm 2003 mà các cặp vợ chồng không tiến hành thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn hợp pháp thì họ sẽ không được xem là vợ chồng theo hướng dẫn của Luật hôn nhân và gia đình. Theo đó nếu có yêu cầu về thực hiện thủ tục ly hôn thì không áp dụng luật mà chỉ xử lý về vấn đề tranh chấp quyền nuôi con và tranh chấp phân chia tài sản.
Vì vậy, việc quy định về các trường hợp hôn nhân thực tiễn được quy định rõ trong hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm khuyến khích việc đăng ký kết hôn giữa các bên nam nữ sống chung với nhau, và là cơ sở pháp lý để giải quyết những khó khăn, vướng mắc gặp phải khi các vấn đề liên quan đến mối quan hệ hôn nhân này có tranh chấp.
4. Một số câu hỏi có liên quan
Hôn nhân thực tiễn có bắt buộc phải đi đăng ký kết hôn không?
Theo quy định tại khoản 2 Điều 44 Nghị định 123/2015/NĐ-CP: “Đối với trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng trước ngày 03 tháng 01 năm 1987 mà chưa đăng ký kết hôn thì được khuyến khích và tạo điều kiện để đăng ký kết hôn. Quan hệ hôn nhân được công nhận kể từ ngày các bên xác lập quan hệ chung sống với nhau như vợ chồng”.
Theo quy định này có thể thấy rằng đối với trường hợp hai bên nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng, xác lập quan hệ vợ chồng với nhau trước ngày 03 tháng 01 năm 1987 mà được coi là hôn nhân thực tiễn thì việc đăng ký kết hôn đặt ra chỉ mang ý nghĩa “khuyến khích” chứ không hề mang tính bắt buộc. Trong trường hợp đăng ký kết hôn thì thủ tục sẽ được thực hiện như đối với việc đăng ký kết hôn theo Pháp luật về Hộ tịch hiện hành. Nếu không tiến hành đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ vẫn được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Thủ tục xin cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân đối với hôn nhân thực tiễn?
Nếu thuộc vào trường hợp được công nhận là hôn nhân thực tiễn theo như phân tích ở trên thì có thể thực hiện thủ tục xin cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân. Thủ tục cụ thể như sau:
– Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ xin xác nhận tình trạng hôn nhân. Hồ sơ xin xác nhận tình trạng hôn nhân gồm có:
+ Tờ khai xin cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân;
+ Bản gốc Chứng minh nhân dân/ căn cước công dân hoặc Hộ chiếu;
+ Bản gốc sổ hộ khẩu gia đình.
– Bước 2: Cá nhân hoàn thiện hồ sơ sau đó nộp hồ sơ tại đơn vị chức năng có thẩm quyền. Hiện nay đơn vị có thẩm quyền cấp giấy xác nhận tình trạng hôn nhân là Ủy ban nhân dân nơi mình cư trú.
Trên đây là toàn bộ nội dung nội dung trình bày giới thiệu về hôn nhân thực tiễn là gì. Nội dung nội dung trình bày có giới thiệu về khái niệm và đặc điểm của hôn nhân thực tiễn, quy định pháp luật về hôn nhân thực tiễn và các vấn đề pháp lý có liên quan. Nếu trong quá trình nghiên cứu, quý bạn đọc còn có vấn đề câu hỏi cần được trả lời hay có quan tâm đến các dịch vụ tư vấn do LVN Group gửi tới, vui lòng truy cập địa chỉ trang web sau đây: https://lvngroup.vn/ để được tư vấn trả lời câu hỏi một cách chi tiết nhất.