Hợp Đồng Vô Hiệu Tuyệt Đối Có Là Hợp Đồng Vô Hiệu Toàn Bộ Không? - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - ACC - Hợp Đồng Vô Hiệu Tuyệt Đối Có Là Hợp Đồng Vô Hiệu Toàn Bộ Không?

Hợp Đồng Vô Hiệu Tuyệt Đối Có Là Hợp Đồng Vô Hiệu Toàn Bộ Không?

Bài viết dưới đây chúng tôi sẽ trả lời câu hỏi về Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối là hợp đồng vô hiệu toàn bộ phải không? Mời bạn đọc cùng theo dõi

Hợp Đồng Vô Hiệu Tuyệt Đối Có Là Hợp Đồng Vô Hiệu Toàn Bộ Không?

1. Đặc điểm pháp lý của hợp đồng vô hiệu

Về bản chất, “hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế và hợp đồng thương mại đều là sự thỏa thuận giữa các chủ thể nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong những quan hệ xã hội cụ thể. Giữa chúng có các điểm chung”.

Khi giao kết hợp đồng các bên tham gia hợp đồng có nghĩa vụ tuân thủ các nguyên tắc, điều kiện theo hướng dẫn của pháp luật. Nếu không tuân theo hợp đồng thì đương nhiên là sự vi phạm nghĩa vụ giữa các bên và vi phạm pháp luật. Còn đối với hợp đồng có hiệu thì thường có những đặc điểm pháp lý như sau:

Một hợp đồng vô hiệu phải là những hợp đồng có sự vi phạm một trong các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng được quy định tại Điều 117 của BLDS năm 2015. Về cơ bản, các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng được quy định tại phần về giao dịch dân sự vô hiệu. Hệ thống các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng được quy định cụ thể tại Điều 117 và Điều 407 của BLDS năm 2015. Đó là các điều kiện pháp lý như:

– Năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự của chủ thể tham gia ký kết hợp đồng;

– Ý chí của các chủ thể tham gia ký kết hợp đồng.

– Mục đích và nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.

– Hình thức của hợp đồng phải phù hợp nếu pháp luật có quy định.

Như vậy, về nguyên tắc, nếu hợp đồng vi phạm một trong các điều kiện này thì nếu có yêu cầu của một bên, Tòa án sẽ xem xét hợp đồng và có thể tuyên bố hợp đồng vô hiệu.

Hai thời điểm xác định sự vô hiệu của hợp đồng là thời điểm hợp đồng đã được ký kết. Do đó, thời điểm xác định sự vô hiệu được tính kể từ thời điểm ký kết hợp đồng. Nếu xác định tại những thời điểm sau khi hợp đồng được xác lập tức là pháp luật đã thừa nhận hiệu lực của hợp đồng trước đó, thừa nhận những vi phạm pháp luật dẫn đến hợp đồng bị vô hiệu. Như vậy, sẽ không đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật, không bảo vệ được các lợi ích bị xâm phạm bởi một hợp đồng vô hiệu.

Ba hợp đồng vô hiệu không được pháp luật thừa nhận. Như đã biết, hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên và về nguyên tắc sẽ được nhà nước và pháp luật tôn trọng và bảo đảm cho việc thực hiện. Tuy nhiên, không phải mọi sự thỏa thuận đều được công nhận và bảo vệ. Pháp luật chỉ thừa nhận và bảo vệ những thỏa thuận không trái với quy định của pháp luật. Mặc dù hợp đồng đã được giao kết và có thể đã được đưa ra thực hiện nhưng sự tồn tại của hợp đồng lúc này chỉ là trên thực tế. Một hợp đồng vô hiệu khi nó không tuân thủ các quy định của pháp luật, vượt ra ngoài giới hạn luật định, xâm phạm đến các quan hệ xã hội, các lợi ích được nhà nước và pháp luật bảo vệ. Pháp luật không công nhận những hợp đồng này ngay cả khi các bên đã thừa nhận nó.

Bốn hợp đồng vô hiệu không làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của các bên. Hợp đồng là hình thức pháp lý quan trọng thể hiện ý chí của các bên giao kết hay chính là nơi ghi nhận quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể. Do đó, hợp đồng là căn cứ pháp lý quan trọng làm cơ sở ràng buộc trách nhiệm của các bên tham gia quan hệ hợp đồng. Hợp đồng bị vô hiệu thì không phát sinh hiệu lực cho nên những thỏa thuận ràng buộc trách nhiệm giữa các bên theo đó cũng không có giá trị về mặt pháp lý.

2. Phân loại hợp đồng vô hiệu:

Hợp đồng dân sự là bản giao kèo để ghi nhận những quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên Việc phân loại hợp đồng giúp cho việc tiếp cận, nghiên cứu, nghiên cứu và áp dụng pháp luật trở nên dễ dàng, chặt chẽ và chính xác hơn. Theo đó, có khá nhiều cách tiếp cận khác nhau về hợp đồng vô hiệu. Căn cứ, các cách phân loại sau đây thường được sử dụng:

Căn cứ vào thủ tục tố tụng có hợp đồng vô hiệu tuyệt đối và hợp đồng vô hiệu tương đối 

– Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối:

Đây là những hợp đồng bị xem là đương nhiên vô hiệu do việc xác lập hợp đồng trái pháp luật, xâm phạm tới lợi ích của nhà nước hoặc lợi ích công cộng. Một số trường trường hợp bị coi là vô hiệu tuyệt đối:

+ Hợp đồng vô hiệu do giả tạo.

+ Hợp đồng có nội dung, mục đích vi phạm điều cấm của pháp luật.

+ Hợp đồng có nội dung, mục đích trái đạo đức xã hội.

Hợp đồng không đúng hình thức do pháp luật quy định và đã được Tòa án cho các bên thời hạn để điều chỉnh, sửa chữa đúng quy định về hình thức nhưng khi hết thời hạn đó mà các bên vẫn chưa thực hiện hoặc trường hợp pháp luật có quy định về hợp đồng vi phạm hình thức nhưng các bên chưa thực hiện hợp đồng và các bên có tranh chấp thì hợp đồng bị xem là vô hiệu.

Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối thì đương nhiên hoàn toàn không có hiệu lực pháp luật.

– Hợp đồng vô hiệu tương đối:

Đây là những hợp đồng đã được các bên xác lập nhưng có thể bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu một phần theo yêu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan.

Sự vô hiệu tương đối thể hiện ở chỗ: Một (hoặc một số) nội dung của hợp đồng giao kết không đúng quy định của pháp luật hoặc xảy ra ngoài sự tính toán của các bên mà dẫn đến việc thực hiện hợp đồng không thể thực hiện được hoặc nếu thực hiện lại dẫn đến các hậu khá bất lợi… Các trường hợp dẫn đến giao dịch dân sự vô hiệu tương đối:

+ Giao dịch dân sự vô hiệu do người xác lập không có năng lực hành vi tương ứng với đòi hỏi của pháp luật đối với loại giao dịch đó.

+ Giao dịch dân sự vô hiệu do bị đe dọa. + Giao dịch dân sự vô hiệu do lừa dối. + Giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn.

+ Giao dịch dân sự vô hiệu do một người xác lập trong tình trạng người đó không nhận thức, điều khiển được hành vi của mình.

Căn cứ vào nội dung hợp đồng thì chia thành hợp đồng vô hiệu toàn bộ và hợp đồng vô hiệu từng phần 

– Hợp đồng vô hiệu toàn bộ:

Đây là hợp đồng có toàn bộ nội dung vô hiệu hoặc tuy chỉ có một phần nội dung vô hiệu nhưng phần đó lại ảnh hưởng đến hiệu lực của toàn bộ hợp đồng.

Khi có những căn cứ cho là toàn bộ điều khoản của hợp đồng vô hiệu thì hợp đồng vô hiệu toàn bộ. Căn cứ làm cho hợp đồng vô hiệu có thể xuất phát từ sự vi phạm nội dung hợp đồng nhưng ngoài ra, cũng có thể là những căn cứ khác như: Mục đích, năng lực giao kết hợp đồng, hợp đồng giả tạo…

Bên cạnh đó, có những hợp đồng vô hiệu toàn bộ nhưng đối với một số điều khoản được các bên thỏa thuận ghi trong hợp đồng có vai trò độc lập với hợp đồng thì khi hợp đồng vô hiệu toàn bộ các điều khoản đó cũng có thể được công nhận có hiệu lực nếu đủ các điều kiện luật định mà không lệ thuộc vào hiệu lực của toàn bộ hợp đồng.

– Hợp đồng vô hiệu từng phần (vô hiệu một phần):

Đây là những hợp đồng được xác lập mà có một phần nội dung của nó không có giá trị pháp lý nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần khác của hợp đồng đó.

Đối với một hợp đồng vô hiệu từng phần, ngoài phần vô hiệu không được áp dụng, các phần còn lại vẫn có giá trị thi hành. Chính vì vậy, các bên vẫn phải tiếp tục thi hành trong phạm vi phần hợp đồng vẫn còn hiệu lực.

Căn cứ vào điều kiện có hiệu lực của hợp đồng có thể phân hợp đồng vô hiệu thành các trường hợp sau

Hợp đồng vô hiệu do người tham gia là cá nhân không có năng lực hành vi dân sự. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi là các điều kiện cần và đủ của năng lực chủ thể. Nói cách khác, chủ thể của các quan hệ pháp luật bắt buộc phải có đủ cả hai điều kiện là năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Ở Việt Nam, năng lực pháp luật dân sự chính là khả năng của chủ thể được pháp luật trao cho các quyền hạn, nghĩa vụ và phải thực hiện trong phạm vi quyền hạn, nghĩa vụ. Còn năng lực hành vi dân sự tức là chủ thể bằng chính khả năng của mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự. Ví dụ, chủ thể trực tiếp tham gia các hệ cầm cố, tặng cho, thế chấp, mua bán..

– Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm, đạo đức xã hội: Điều cấm của pháp luật là những quy định bắt buộc không được thực hiện mà nếu thực hiện dẫn đến hậu quả pháp lý là trái quy định của pháp luật. Còn đạo đức xã hội là cách thức ứng hay quy cách xử giữa người với người nhưng được cả xã hội tôn trọng và thừa nhận. Nếu như là trái những quy cách ứng xử này sẽ bị lên án. Mặt khác, pháp luật là công cụ bảo vệ đạo đức xã hội. Vậy nên, việc vi phạm đạo đức xã hội thường cũng dẫn đến việc vi phạm pháp luật.

–Hợp đồng vô hiệu do không có sự tự nguyện của chủ thể: Bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên trên cơ sở tự do, tự nguyện, bình đẳng, thỏa thuận và được ghi nhận trong các văn bản. Nên nếu như việc các bên mặc dù có hành vi giao kết hợp đồng nhưng trái tinh thần, mong muốn hay sự tự nguyện của các bên thì đương nhiên dẫn đến việc hợp đồng vô hiệu. Bởi như đã nói, sự tự nguyện của các bên là cơ sở của việc giao kết hợp đồng.

–Hợp đồng vô hiệu do vi phạm cách thức (nếu pháp luật có quy định về cách thức của hợp đồng là điều kiện bắt buộc). Để thống nhất và thuận tiện cho việc xem xét, giải quyết, pháp luật thường đưa ra một số điều kiện mang tính khuôn mẫu trong đó có vấn đề tuân thủ theo cách thức của hợp đồng. Vì vậy, trong hầu hết các trường hợp, các bên giao kết hợp đồng phải tuân thủ theo hướng dẫn về cách thức

Căn cứ vào điều kiện có hiệu lực của hợp đồng có thể phân hợp đồng vô hiệu thành các trường hợp sau

–Hợp đồng vô hiệu do người tham gia là cá nhân không có năng lực hành vi dân sự. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi là các điều kiện cần và đủ của năng lực chủ thể. Nói cách khác, chủ thể của các quan hệ pháp luật bắt buộc phải có đủ cả hai điều kiện là năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Ở Việt Nam, năng lực pháp luật dân sự chính là khả năng của chủ thể được pháp luật trao cho các quyền hạn, nghĩa vụ và phải thực hiện trong phạm vi quyền hạn, nghĩa vụ. Còn năng lực hành vi dân sự tức là chủ thể bằng chính khả năng của mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự. Ví dụ, chủ thể trực tiếp tham gia các hệ cầm cố, tặng cho, thế chấp, mua bán…

–Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm, đạo đức xã hội: Điều cấm của pháp luật là những quy định bắt buộc không được thực hiện mà nếu thực hiện dẫn đến hậu quả pháp lý là trái quy định của pháp luật. Còn đạo đức xã hội là cách thức ứng hay quy cách xử giữa người với người nhưng được cả xã hội tôn trọng và thừa nhận. Nếu như là trái những quy cách ứng xử này sẽ bị lên án. Mặt khác, pháp luật là công cụ bảo vệ đạo đức xã hội. Vậy nên, việc vi phạm đạo đức xã hội thường cũng dẫn đến việc vi phạm pháp luật.

– Hợp đồng vô hiệu do không có sự tự nguyện của chủ thể: Bản chất của hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên trên cơ sở tự do, tự nguyện, bình đẳng, thỏa thuận và được ghi nhận trong các văn bản. Nên nếu như việc các bên mặc dù có hành vi giao kết hợp đồng nhưng trái tinh thần, mong muốn hay sự tự nguyện của các bên thì đương nhiên dẫn đến việc hợp đồng vô hiệu. Bởi như đã nói, sự tự nguyện của các bên là cơ sở của việc giao kết hợp đồng.

– Hợp đồng vô hiệu do vi phạm hình thức (nếu pháp luật có quy định về hình thức của hợp đồng là điều kiện bắt buộc). Để thống nhất và thuận tiện cho việc xem xét, giải quyết, pháp luật thường đưa ra một số điều kiện mang tính khuôn mẫu trong đó có vấn đề tuân thủ theo hình thức của hợp đồng. Như vậy, trong hầu hết các trường hợp, các bên giao kết hợp đồng phải tuân thủ theo quy định về hình thức của hợp đồng. Nếu như hình thức của hợp đồng không đúng quy định có thể dẫn đến việc hợp đồng vô hiệu.

Căn cứ vào mức độ vượt quá phạm vi đại diện của người đại diện 

Về bản chất, uỷ quyền được hiểu đó là việc một người (gọi là người uỷ quyền) nhân danh và vì lợi ích của người khác (gọi là người được uỷ quyền) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi uỷ quyền. Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác có thể xác lập thực hiện giao dịch dân sự thông qua người uỷ quyền. Hình thức uỷ quyền phổ biến thường được sử dụng như uỷ quyền theo pháp luật; uỷ quyền theo ủy quyền. Trong thương mại còn có cách thức uỷ quyền cho thương nhân. Đây là một dạng riêng của quan hệ uỷ quyền theo ủy quyền được quy định trong Bộ luật Dân sự, bởi vậy, hợp đồng đại diện cho thương nhân là một dạng đặc biệt của hợp đồng ủy quyền”.

Một trong các điều kiện cần thiết để công nhận hợp đồng có hiệu lực là tư cách uỷ quyền hợp pháp (uỷ quyền theo pháp luật hoặc ủy quyền) của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức hoặc cá nhân. Trong nhiều trường hợp, khi việc tham gia xác lập hợp đồng thay cho người thứ ba không dựa trên các trường hợp uỷ quyền luật định thì hợp đồng đó có thể bị là vô hiệu.

– Hợp đồng vô hiệu do người đại diện xác lập vượt quá phạm vi đại diện:

Thường thì đây là hợp đồng được xác lập bởi người uỷ quyền hợp pháp, nhưng do người uỷ quyền đã xác lập hợp đồng trên thực tiễn vượt quá phạm vi uỷ quyền. Người trực tiếp tham gia hợp đồng tuy có tư cách uỷ quyền hợp pháp nhưng nội dung hợp đồng do họ xác lập có một phần giá trị, mức độ, phạm vi vượt quá giới hạn được ghi trong hợp đồng ủy quyền hoặc được quy định trong loại uỷ quyền tương ứng.

Hợp đồng được xác lập vượt quá phạm vi uỷ quyền thì phần vượt quá phạm vi uỷ quyền đó bị vô hiệu, trừ trường hợp người được uỷ quyền biết mà không phản đối.

–Hợp đồng vô hiệu do người giao kết không có quyền uỷ quyền:

Hợp đồng vô hiệu do người trực tiếp giao kết không có tư cách đại diện hoặc tuy có tư cách đại diện nhưng đã giao kết, thực hiện Hợp đồng không thuộc công việc mà họ được phép đại diện.

Cũng bị xem là không có tư cách đại diện nếu người đại diện đưa ra những tuyên bố trái với ý chí của người được đại diện hay làm những việc không thuộc đối tượng của quan hệ đại diện.

3. Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối là hợp đồng vô hiệu toàn bộ phải không?

Về việc áp dụng luật thì Bộ luật DS không có khái niệm vô hiệu tuyệt đối hay tương đối. Tuy nhiên khái niệm vô hiệu toàn phần hay từng phần thì có đề cập trong một số văn bản.Vô hiệu tuyệt đối thì nói về tính chất còn vô hiệu toàn bộ thì nói về phạm vi.

Về mặt luật học: Tính chất tuyệt đối thì nói đến vô hiệu không thể khắc phục được thí dụ như vi phạm đạo đức, điều cấm của pháp luật. Tính chất tương đối của vô hiệu là việc vô hiệu có thể khắc phục được như vô hiệu về cách thức ( khắc phục được nếu trong 1 thời gian cho phép 2 bên thực hiện như công chứng HĐ).

Vì vậy, hai khái niệm trên là khác nhau.

Trên đây chúng tôi đã trả lời câu hỏi về Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối là hợp đồng vô hiệu toàn bộ phải không? Nếu còn vướng mắc phát sinh bạn đọc vui lòng liên hệ với chúng tôi qua lvngroup.vn

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com