Quan hệ pháp luật là quan hệ xã hội được xác lập, tồn tại, phát triển hoặc là chấm dứt dựa trên cơ sở các quy định của pháp luật. Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định cụ thể các quan hệ pháp luật dân sự. Luật LVN Group xin gửi đến quý bạn đọc nội dung trình bày: “Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự là gì? [2023]”.
1. Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự là gì?
Đối tượng mà các chủ thể quan tâm, hướng tới, nhằm đạt tới hoặc tác động vào khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự.
Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự được chia thành 5 nhóm sau:
1) Tài sản, bao gồm vật có thực, tiền, các giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản – nhóm khách thể của quan hệ pháp luật về sở hữu;
2) Hành vi (bao gồm cả hành vi hành động và hành vi không hành động). Đây là nhóm khách thể trong quan hệ nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự;
3) Các kết quả của hoạt động tỉnh thần, sáng tạo là nhóm khách thể của quyền sở hữu trí tuệ;
4) Các giá trị nhân thân là nhóm khách thể của quyền nhân thân được pháp luật dân sự bảo vệ;
5) Quyền sử dụng đất, là nhóm khách thể có tính chất đặc thù trong các quan hệ pháp luật dân sự về chuyển quyền sử dụng đất.
2. Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự?
Đối tượng điều chỉnh của luật dân sự là quan hệ nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân trong các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung là quan hệ dân sự) (Điều 1 Bộ luật dân sự – BLDS năm 2015).
2.1. Quan hệ tài sản
Quan hệ tài sản là quan hệ giữa người với người thông qua một tài sản, Quan hệ tài sản bao giờ cũng gắn với một tài sản nhất định được thể hiện dưới dạng này hay dạng khác.
Tài sản (được khái quát chung ở Điều 105 BLDS năm 2015) bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Quan hệ tài sản tài sản không chỉ bó hẹp ở những vật vô tri mà còn hàm chứa nội dung xã hội là những quan hệ xã hội liên quan đến một tài sản.
Quan hệ tài sản không chỉ bao gồm vật thuộc về ai, do ai chiếm hữu, sử dụng, định đoạt mà còn bao gồm cả việc dịch chuyển những tài sản đó từ chủ thể này sang chủ thể khác, quyền yêu cầu của một hay nhiều chủ thể và nghĩa vụ tương ứng với các quyền yêu cầu đó của một hay nhiều chủ thể khác trong quan hệ nghĩa vụ cũng được coi là quan hệ tài sản. Quan hệ tài sản rất đa dạng và phức tạp bởi các yếu tố cấu thành nên các quan hệ đó bao gồm: chủ thể tham gia, khách thể được tác động và nội dung của các quan hệ đó. Quan hệ tài sản là đối tượng điều chỉnh của luật dân sự có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh mang tính ý chí. Quan hệ tài sản phát sinh giữa các chủ thể là những quan hệ kinh tế cụ thể trong quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông và tiêu thụ sản phẩm cũng như cung ứng dịch vụ trong xã hội. Quan hệ tài sản luôn gắn liền với quan hệ sản xuất và phù hợp với quan hệ sản xuất vốn là hạ tầng của xã hội. Quan hệ sản xuất tồn tại không phụ thuộc vào ý chí của con người mà nó phát sinh, phát triển theo những quy luật khách quan. Nhưng những quy luật này được nhận thức và phản ánh thông qua những quy phạm pháp luật lại mang tính chủ quan – ý chí của giai cấp thống trị phản ánh sự tồn tại xã hội thông qua các quy phạm pháp luật. Mỗi chủ thể tham gia vào một quan hệ kinh tế cụ thể đều đặt ra những mục đích và với động cơ nhất định. Bởi vậy, quan hệ tài sản mà các chủ thể tham gia mang ý chí của các chủ thể và phải phù hợp với ý chí của Nhà nước thông qua các quy phạm pháp luật dân sự. Nhà nước dùng các quy phạm pháp luật dân sự tác động lên các quan hệ kinh tế, hướng cho các quan hệ này phát sinh, thay đổi theo ý chí của Nhà nước. Vì vậy, sự tác động của Nhà nước thông qua các quy phạm pháp luật dân sự có ý nghĩa cần thiết trong việc định hướng cho các quan hệ tài sản phát triển. Nếu sự định hướng phù hợp với những quy luật khách quan của sự phát triển thì sẽ thúc đẩy quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất phát triển và ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Có thể nói rằng quan hệ tài sản là biểu hiện ý chí của chủ thể, của nhà nước về quan hệ sản xuất trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang xây dựng và hình thành nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều cách thức sở hữu và cách thức kinh doanh thì việc xác định các quan hệ tài sản phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là định hướng có ý nghĩa đặc biệt cần thiết, có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ nền sản xuất xã hội.
Thứ hai, quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh mang tính chất hàng hoá và tiền tệ. Định hướng chiến lược của nước ta hiện nay là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa (Điều 15 Hiến pháp năm 1992). Trong mô hình kinh tế này, các tài sản được thể hiện dưới dạng hàng hoá và được quy thành tiền. Sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ để bán, để trao đổi là đặc trưng của nền sản xuất này. Nó tạo động lực cho mọi cá nhân và tổ chức, khơi dậy mọi tiềm năng của họ, phát huy ý chí tự lực, tự cường ra sức làm giàu cho mình và cho đất nước. Nhưng nền kinh tế hàng hoá theo cơ chế thị trường cũng có những mặt trái của nó (cạnh tranh không lành mạnh, phân hoá giàu nghèo…). Cho nên, khuyến khích tính năng động, sáng tạo đi đôi với thiết lập trật tự kỉ cương trong hoạt động kinh tế, bảo đảm cho mọi đơn vị kinh tế, không phân biệt quan hệ sở hữu đều hoạt động theo cơ chế tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau, bình đắng trước pháp luật. Bởi vậy, cần phải có hành lang pháp lí vừa mềm dẻo, linh hoạt, vừa chặt chẽ mới có thể đáp ứng được các yêu cầu trên. Hơn nữa chúng ta đang trong quá trình hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực, do vậy pháp luật nói chung và pháp luật dân sự nói riêng còn phải tương thích với pháp luật của các nước trên thế giới và trong khu vực. Quy luật của nền kinh tế thị trường trong sản xuất xã hội chi phối các quan hệ tài sản mà một trong các biểu hiện của nó là quan hệ tiền – hàng. Sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ trong nền kinh tế thị trường chủ yếu thông qua cách thức tiền – hàng. Khái niệm hàng hoá càng ngày càng được mở rộng cùng với sự chuyên môn hoá của nền sản xuất, cùng với sự phát triển của khoa học-kĩ thuật và quan niệm xã hội về các đối tượng trao đổi. Tài sản là đối tượng và cũng là khách thể của quan hệ tài sản phải trị giá được thành tiền và có thể chuyển giao thông qua các giao dịch dân sự. Do vậy, các quan hệ tài sản này cũng không nằm ngoài sự chi phối của quy luật hàng hoá – tiền tệ.
Thứ ba, quan hệ tài sản do luật dân sự điều chỉnh mang tính chất đền bù tương đương. Sự đền bù tương đương trong trao đổi là biểu hiện của quan hệ hàng hoá và tiền tệ, là đặc trưng của quan hệ dân sự theo nghĩa rộng. Nhưng không phải tất cả sự dịch chuyển tài sản, dịch vụ đều có sự đền bù tương đương như: cho, tặng, thừa kế, sử dụng các tác phẩm văn học nghệ thuật… Nhưng các quan hệ này không phải là quan hệ cơ bản và không phổ biến trong trao đổi; nó không chỉ đơn thuần là quan hệ pháp luật mà còn bị chi phối bởi nhiều quan hệ xã hội khác (truyền thống, phong tục…).
2.2. Quan hệ nhân thân
Cùng với quan hệ tài sản, luật dân sự còn điều chỉnh các quan hệ nhân thân (Điều 1 BLDS năm 2015). Quan hệ nhân thân là quan hệ giữa người với người về một giá trị nhân thân của cá nhân hay các tổ chức. Việc xác định một giá trị nhân thân là quyền nhân thân phải được pháp luật thừa nhận như một quyền tuyệt đối của một cá nhân, tổ chức. Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với một chủ thể, về nguyên tắc không thể chuyển giao cho chủ thể khác, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Đó là một quyền dân sự tuyệt đối, mọi người đều có nghĩa vụ tôn trọng quyền nhân thân của người khác. | Các quyền nhân thân được nhiều ngành luật điều chỉnh. Luật hành chính quy định về trình tự, thủ tục để xác định các quyền nhân thân như: phong các danh hiệu cao quý của Nhà nước; tặng thưởng các loại huân, huy chương; công nhận các chức danh… Luật hình sự bảo vệ các giá trị nhân thân bằng cách quy định những hành vi nào khi xâm phạm đến những giá trị nhân thân nào được coi là tội phạm (như các tội: vu khống, làm nhục người khác, làm hàng giả…).
Luật dân sự điều chỉnh các quan hệ nhân thân bằng cách quy định những giá trị nhân thân nào được coi là quyền nhân thân, trình tự thực hiện, giới hạn của các quyền nhân thân đó, đồng thời quy định các biện pháp thực hiện, bảo vệ các quyền nhân thân (Điều 11 – Điều 14 BLDS năm 2015).
Các quan hệ nhân thân xuất phát từ quyền nhân thân do luật dân sự điều chỉnh có thể chia làm hai nhóm căn cứ vào khoản 1 Điều 17 BLDS năm 2015:
– Quan hệ nhân thân gắn với tài sản;
– Quan hệ nhân thân không gắn với tài sản.
Những quan hệ nhân thân do luật dân sự điều chỉnh có những đặc điểm sau:
– Quyền nhân thân luôn gắn liền với một chủ thể nhất định và không thể dịch chuyển được cho các chủ thể khác. Tuy nhiên, trong những trường hợp nhất định có thể được dịch chuyển. Những trường hợp cá biệt này phải do pháp luật quy định quyền công bố tác phẩm của chuyên gia các tác phẩm, các đối tượng sở hữu công nghiệp…).
– Quyền nhân thân không xác định được bằng tiền – giá trị nhân thân và tiền tệ không phải là những đại lượng tương đương và không thể trao đổi ngang giá. Các quyền nhân thân không gắn với tài sản như danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, danh dự, uy tín của tổ chức; quyền đối với họ, tên; thay đổi họ tên; quyền xác định dân tộc, thay đổi dân tộc; quyền đối với hình ảnh; với bí mật đời tư; quyền kết hôn, li hôn… (từ Điều 26 đến Điều 39 BLDS năm 2015). Một số quyền
nhân thân mới được ghi nhận và bảo hộ trong BLDS năm 2015 như: quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình; chuyển đổi giới tính; quyền nhân thân trong quan hệ hôn nhân và gia đình…
Luật dân sự ghi nhận những giá trị nhân thân được coi là quyền nhân thân và quy định các biện pháp bảo vệ các giá trị nhân thân đó. Mỗi chủ thể có những giá trị nhân thân khác nhau nhưng được bảo vệ như nhau khi các giá trị đó bị xâm phạm. Khi quyền nhân thân bị xâm phạm thì chủ thể có quyền tự mình cải chính, yêu cầu người có hành vi xâm phạm hoặc yêu cầu đơn vị nhà nước có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm: xin lỗi, cải chính công khai; tự mình cải chính trên các phương tiện thông tin đại chúng; yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu toà án buộc người vi phạm phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp những tổn thất về tinh thần.
Các quan hệ nhân thân gắn với tài sản là những giá trị nhân thân khi được xác lập làm phát sinh các quyền tài sản. Quyền nhân thân là tiền đề làm phát sinh các quyền tài sản khi có những sự kiện pháp lí nhất định như chuyên gia các tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học kĩ thuật; quyền chuyên gia các sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp… được hưởng tiền nhuận bút, thù lao, được hưởng tiền thù lao do áp dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp nêu trên. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh là quyền nhân thân nhưng khi hình ảnh đó được người khác sử dụng vì mục đích thương mại thì người có hình ảnh sẽ được trả thù lao. Đó là sự kiện làm phát sinh quyền nhân thân gắn với tài sản.
3. Phương pháp điều chỉnh của luật dân sự
Đối với các quan hệ pháp luật dựa trên sự bình đẳng về địa vị pháp lý, sự tự do, tự nguyện của các bên chủ thể với hai đối tượng chính là tài sản và các giá trị nhân thân thì phương pháp điều chỉnh nhóm quan hệ này cũng có sự riêng biệt nhất định. Phương pháp điều chỉnh của luật dân sự thường được hiểu là cách thức mà Nhà nước tác động, định hướng để các quan hệ dân sự diễn ra hoàn toàn tự do, tự nguyện nhưng vẫn tôn trọng những lợi ích căn bản nhất định như lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể đó trong xã hội.
Phương pháp điều chỉnh chủ yếu của luật dân sự dành cho các quan hệ pháp luật dân sự được thể hiện thông qua các đặc điểm đặc thù sau:
Thứ nhất, các chủ thể có quyền tự do trong quan hệ pháp luật dân sự. Quyền tự do của chủ thể được thể hiện rất rõ trong việc chủ thể có quyền tự do lựa chọn nhóm quan hệ mà mình muốn tham gia, lựa chọn chủ thể sẽ tham gia với mình, tự do thoả thuận để xác định rõ nội dung (quyền, nghĩa vụ) của mình và của chủ thể cùng tham gia quan hệ pháp luật dân sự với mình. Nội hàm tự do chủ thể cho phép chủ thể được tự mình thoả thuận, cam kết các nội dung mà không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội.
Thứ hai, sự cam kết, thoả thuận hoặc thực hiện hành vi hợp pháp phù hợp với ý chí của các chủ thể là cách thức chính để các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự. Pháp luật cho phép các chủ thể có thể tham gia vào các quan hệ dân sự qua nhiều cách thức như giao kết hợp đồng, thực hiện hành vi pháp lý đơn phương… Dù thực hiện theo cách thức nào thì đều phải phù hợp với ý chí của các bên chủ thể. Một quan hệ hợp đồng chỉ được hình thành trên cơ sở thống nhất ý chí của các bên, tức là phù hợp ý chí các bên trong hợp đồng này. Một quan hệ pháp luật hình thành trên cơ sở hành vi pháp lý đơn phương thì hành vi này chỉ được thực hiện nếu như chủ thể đó mong muốn và có nhu cầu. Vì vậy, pháp luật có thể đưa ra hành lang pháp lý cơ bản về các giao dịch mà chủ thể có thể thực hiện nhưng để thực hiện trong thực tiễn thì phải dựa vào ý chí của các chủ thể này.
4. Dịch vụ tư vấn luật LVN Group
Trên đây là thông tin về Khách thể của quan hệ pháp luật dân sự mà Công ty Luật LVN Group gửi đến quý bạn đọc tham khảo. Nếu cần cung cấp thêm thông tin chi tiết quy định về dân sự, quý khách vui lòng truy cập trang web: https://lvngroup.vn để được trao đổi cụ thể.