Khái niệm xã hội học tội phạm

Khái niệm xã hội học tội phạm là gì và có ý nghĩa thế nào trong pháp luật hình sự? Hãy cùng Luật LVN Group nghiên cứu chi tiết hơn thông qua nội dung trình bày sau !!

1. Khái niệm xã hội học tội phạm

Xã hội học tội phạm là Phần nghiên cứu sự phản ứng của xã hội đối với sự kiện phạm tội và tình hình phạm tội, bằng các biện pháp cụ thể đi sâu nghiên cứu tình hình dân trí, ý thức xã hội, tâm lý xã hội, tâm trạng xã hội, thái độ phê phán của các tầng lớp nhân dân, các giai tầng xã hội, các lứa tuổi, các ngành nghề, tôn giáo tín ngưỡng… nhằm góp phần làm cho các chủ trương, biện pháp phòng chống tội phạm có tính khả thi cao, sát đúng yêu cầu của trật tự pháp luật và hợp với lòng dân.

2. Nhân thân người phạm tội

Nhân thân người phạm tội là một phạm trù thuộc về con người được đề cập trong các ngành khoa học tội phạm học, khoa học luật hình sự, khoa học điều tra tội phạm, tâm lý học tư pháp… Trong hoạt động thực tiễn các đơn vị điều tra, tòa án, đơn vị thi hành án, các đơn vị khác của Nhà nước, các tổ chức xã hội cần nắm được vấn đề nhân thân người phạm tội trong quá trình tiến hành công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, giáo dục và cải tạo người phạm tội. Do đó, vấn đề nhân thân người phạm tội là một vấn đề của nhiều ngành khoa học nghiên cứu. Ở mỗi ngành khoa học có những góc độ tiếp cận khác nhau. Trước hết để nghiên cứu về nhân thân người phạm tội cần tiếp cận ở khái niệm.

Khái niệm về nhân thân người phạm tội liên quan mật thiết với khái niệm chung của xã hội học Mác – Lê Nin về nhân thân con người.Theo đó, nhân thân có thể hiểu đó là bản chất xã hội của con người được thể hiện thông qua vị trí của con người trong các quan hệ xã hội. Nhân thân là một phạm trù lịch sử. Đối với với quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin, quan điểm về nhân thân đối với các nhà tư sản là nhân thân tách rời với quá trình phát triển xã hội. Theo đó, nhân thân phải là cá nhân có đặc điểm riêng giữa các cá thể trong xã hội, có khả năng điều khiển được chính con người mình và điều khiển được người khác, có khả năng quyết định tiến trình phát triển của lịch sử.

Đặc điểm nhân thân của người phạm tội được tội phạm học nghiên cứu là những đặc điểm mang tính đặc trưng, phổ biến điển hình và có vai trò cần thiết trong cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội. Các đặc điểm nhân thân của người phạm tội được tội phạm học nghiên cứu ở một số khía cạnh cụ thể, như: Đặc điểm sinh học tuổi tác, giới tính, đặc điểm xã hội trình độ học vấn, nơi cư trú, nghề nghiệp, đặc điểm tâm lý phản ánh nhận thức xã hội tiêu cực của người phạm tội, đặc điểm nhân thân mang tính pháp lý hình sự.

Nhân thân người phạm tội là những đặc điểm dấu hiệu đặc trưng nhất phản ánh bản chất của người phạm tội, những đặc điểm dấu hiệu này tác động với những tình huống và hoàn cảnh khách quan khác đã tạo ra xử sự phạm tội của người đó. Những đặc điểm đó có thể là tuổi, nghề nghiệp, thái độ công tác, thái độ trong quan hệ với những người khác, trình độ văn hóa, lối sống, hoàn cảnh gia đình và đời sống kinh tế, thái độ chính trị, ý thức pháp luật, tôn giáo, tiền án, tiền sự…

3. Lệch lạc xã hội

Xã hội học chuyên nghiên cứu sự bất bình thường trong quá trình xã hội hoá của mỗi cá nhân, trong quá trình đó cá nhân có những mối quan hệ với xã hội. Trong bất kì xã hội nào dù xã hội đó có hoàn hảo đến đâu thì chúng ta vẫn thấy không ít cá nhân hoặc bộ phận nào đó không làm theo qui tắc xã hội, không thực hiện theo sự mong đợi của xã hội, thậm chí còn gây tai hoạ lớn cho xã hội.

Lệch lạc xã hội là một sự kiện không có khuôn mẫu chung mà nó phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của từng xã hội. Vì vậy, chúng ta không nên đưa ra một định nghĩa cứng nhắc về sự kiện lệch lạc. Theo cách chung nhất, để kết luận về hành vi là lệch lạc người ta thường dựa trên kết quả hành động của cá nhân hoặc nhóm xã hội tỏ ra không phù hợp với mong đợi chung của toàn xã hội.

Lệch lạc xã hội là hành vi của con người đi lệch khỏi các qui định của luật pháp, đi lệch khỏi các giá trị, chuẩn mực và qui tắc, qui ước của xã hội.

Hiện tượng lệch lạc chỉ thể hiện qua sự tương tác giữa cá nhân và cá nhân, cá nhân và tập thể. Khi hành động của cá nhân không phù hợp với những qui định của tập thể, cá nhân đó được coi là lệch lạc. Như Becker (1961) đã nói: “Sự lệch lạc không phải là một đặc tính hiện diện trong một số loại hành vi mà nằm trong mỗi tác động qua lại giữa những ai có hành động và những ai đáp ứng lại chúng”.

Trong xã hội, mỗi tương tác lại thể hiện bằng nhiều cách thức khác nhau, nó tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện, lối sống, văn hoá, tôn giáo… cho nên hành vi lệch lạc không thể có khuôn mẫu chung, có khi hành vi đó trong môi trường này là lệch lạc nhưng trong môi trường khác lại là khuôn mẫu, chuẩn mực.

Con người luôn đi tìm cho mình một giá trị sống phù hợp nhưng nó chỉ được chấp nhận khi họ hành động theo những qui định chung. Có khi sự mâu thuẫn giữa qui luật chung và giá trị cá nhân tìm kiếm là tác nhân dẫn đến sự lệch lạc.

Để xác định một hành vi là lệch lạc bên cạnh sự qui chiếu vào luật pháp còn phải đặt hành vi đó vào những qui chuẩn của đạo đức xã hội. Một hành vi không bị luật pháp coi là một cách thức phạm tội nhưng cộng đồng xã hội không chấp nhận. Cá nhân vi phạm vào đạo đức xã hội đôi khi phải chịu hậu quả nặng nề hơn rất nhiều. Có thể thấy rằng có những toà án công chúng có thể bất chấp sự can thiệp của luật pháp, điển hình là những cách thức xử phạt của cộng đồng với những phụ nữ bị coi là ngoại tình ở xã hội phương Đông thời phong kiến. Hầu hết những hành động này bị coi là xúc phạm đến xã hội và không cần bất cứ một thứ luật pháp nào cộng đồng cùng tự xử phạt theo cách riêng của họ. Người ta không có một cách thức chung nhất nào để xác định rõ đâu là hành vi lệch lạc. Lệch lạc so với những qui định của pháp luật, lệch lạc so với đạo đức xã hội, lệch lạc so với văn hoá… tuỳ vào những bối cảnh không gian và thời gian mà những qui ước này khác nhau hoặc giống nhau.

Điều đó cho thấy lệch lạc xã hội chỉ mang tính tương đối. Chúng ta khó có thể xác định được ranh giới của lệch lạc nhất là những lệch lạc ở mức độ thấp.

Hiện tượng lệch lạc vẫn luôn tồn tại trong đời sống xã hội dù xã hội đó tồn tại và phát triển đến giai đoạn nào đi chăng nữa. Hành vi được xác định là lệch lạc vừa do sự qui chiếu vào qui ước của xã hội là có sẵn của xã hội, đó là những khuôn mẫu bên ngoài “ở đâu có luật pháp, ở đó có tội phạm”.

Bên cạnh đó hành vi lệch lạc còn nảy sinh trong quá trình sống của con người, trong những mối quan hệ của xã hội. Đứng trước một hành động, không phải ai cũng có những nhận thức giống nhau.

Ví dụ: Khi gặp ngã tư có đèn đỏ, nếu không có người đi từ hai hướng ở đèn xanh thì có người sẽ vượt đèn đỏ và cho đó là chuyện bình thường.

Sở dĩ lệch lạc vẫn tồn tại do con người có những cách đánh giá khác nhau về nó. Sự tồn tại ổn định là do các cá nhân biết tuân theo những qui định chung. Thế nhưng một số người lại dựa vào đó hoặc tách mình ra khỏi điều chung để phục vụ cho quyền lợi của riêng họ.

Tất cả những gì tồn tại đều có lí của nó. Con người còn tồn tại trong mối quan hệ với nhau thì lệch lạc còn xảy ra. Durkheim cũng lí luận như vậy đối với ngay cả sự kiện tội phạm: “Trước hết tội ác là bình thường, bởi vì một xã hội hoàn toàn không có tội ác là không thể có được”.

  • Trong đời sống hàng ngày, lệch lạc được coi là một sự kiện xấu, xã hội coi là bất thường. Nhưng xét cho cùng thì đây là một sự kiện bình thường của xã hội. Vì sự lệch lạc là bước chuyển tiếp cho con người qua một hành động khác, có thể là tích cực, có thể là tiêu cực. Có những lệch lạc trở thành chuẩn mực và được mọi người chấp nhận theo tính hợp lí nhưng cũng có những lệch lạc đưa đến hành vi phạm tội. Hành vi lệch lạc không chỉ là sự đánh giá những hành động xảy ra bên ngoài mà còn có những ý thức lệch lạc tiềm ẩn bên trong con người.

Vì vậy chúng ta đã có được một cái nhìn tổng quan về khái niệm và sự tồn tại của sự kiện lệch lạc. Có thể thấy rằng sự kiện này không phổ biến bằng việc hàng ngày chúng ta đi học hay đi làm, nhưng nó lại là hành vi đặc biệt, gây sự chú ý khiến cho chúng ta không bao giờ cảm thấy đây là những hành vi mang tính thiểu số.

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com