Trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự thì trong một số trường hợp phải thực hiện biện pháp ngăn chặn là bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Đồng thời việc này cũng có thể tránh việc bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội, bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ… Bộ luật Tố tụng đã quy định các chủ thể có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam tại khoản 1 Điều 113 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Mặt khác, tại điều này cũng quy định về thủ tục khi bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Để nghiên cứu về quy định này, hãy theo dõi nội dung trình bày dưới đây của LVN Group đẻ được trả lời.
1. Căn cứ bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
Theo khoản 1 Điều 60 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự. Theo khoản 1 Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.
Do đó, bắt bị can, bị cáo để tạm giam được hiểu là bắt người đã bị khởi tố bị can hoặc người đã có quyết định của Tòa án đưa ra xét xử để tạm giam nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự, ngăn chặn việc họ tiếp tục phạm tội, bỏ trốn hoặc thay đổi, tiêu hủy chứng cứ… Biện pháp này chỉ áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam đối với họ.
Đối với người phạm tội nhưng không có quyết định khởi tố bị can của đơn vị có thẩm quyền tiến hành tố tụng thì không được áp dụng biện pháp này. Đây là trường hợp bắt để phục vụ cho việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam.
Quy định tại Điều 113 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 không quy định về căn cứ áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Tuy nhiên, xét từ mục đích của biện pháp này là để tạm giam bị can, bị cáo để phục vụ yêu cầu điều tra, truy tố và xét xử, nên khi có căn cứ để tạm giam đối với bị can, bị cáo đang tại ngoại (theo các căn cứ đã phân tích ở trên) thì đơn vị có thẩm quyền sẽ áp dụng biện pháp bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
Vì vậy, dù điều luật không quy định cụ thể trường hợp nào thì được bắt bị can, bị cáo, để tạm giam nhưng có thể hiểu rằng chỉ có thể bắt trong trường hợp này khi có hai điều kiện:
– Thứ nhất, người bị bắt phải là bị can hoặc là bị cáo. Tức là người đã bị khởi tố bị can hoặc người đã có quyết định của Tòa án đưa ra xét xử để tạm giam.
– Thứ hai, người bị bắt là để tạm giam, cần thiết phải tạm giam để đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử.
2. Chủ thể có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
Căn cứ theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 113 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì những người sau đây có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam:
– Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp. Trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành;
– Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp;
– Chánh án, Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự các cấp; Hội đồng xét xử.
3. Nội dung của lệnh bắt, quyết định phê chuẩn lệnh, quyết định bắt.
Căn cứ theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 113 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì lệnh bắt, quyết định phê chuẩn lệnh, quyết định bắt sẽ gồm những nội dung sau:
– Họ tên, địa chỉ của người bị bắt;
– Lý do bắt;
– Số, ngày, tháng, năm, địa điểm ban hành văn bản tố tụng;
– Căn cứ ban hành văn bản tố tụng;
– Nội dung của văn bản tố tụng;
– Họ tên, chức vụ, chữ ký của người ban hành văn bản tố tụng và đóng dấu.
4. Thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam.
Căn cứ theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 113 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì người thi hành lệnh, quyết định phải đọc lệnh, quyết định; giải thích lệnh, quyết định, quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt; giao lệnh, quyết định cho người bị bắt.
Và khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú phải có uỷ quyền chính quyền xã, phường, thị trấn và người khác chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó công tác, học tập phải có uỷ quyền đơn vị, tổ chức nơi người đó công tác, học tập chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi khác phải có sự chứng kiến của uỷ quyền chính quyền xã, phường, thị trấn nơi tiến hành bắt người.
Mặt khác, căn cứ theo hướng dẫn tại khoản 3 Điều 113 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì không được bắt người vào ban đêm, trừ trường hợp phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã. Ban đêm là khoảng thời gian bắt đầu từ 22 giờ tối hôm trước đến 6 giờ sáng hôm sau.
Người phạm tội quả tang theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 111 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 là người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm mà bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt. Cũng tại Điều này thì đối với người phạm tội quả tang thì bất cứ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay người tại bắt đến đơn vị Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất.
Người đang bị truy nã thì theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 112 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì bất cứ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay người tại bắt đến đơn vị Công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất.
Do hai đối tượng này có đặc điểm là nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm đối với xã hội do đó trong trường hợp bắt để tạm giam thì đối với hai đối tượng này có thể bắt vào ban đêm. Quy định này là phù hợp với tính chất nguy hiểm, manh động của hai đối tượng này.
Trên đây là toàn bộ nội dung nội dung trình bày giới thiệu về khoản 1 Điều 113 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Nội dung nội dung trình bày có giới thiệu về căn cứ bắt bị can, bị cáo để tạm giam; chủ thể có quyền ra lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam; nội dung của lệnh, quyết định bắt bị can, bị cáo để tạm giam; thủ tục bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Nếu trong quá trình nghiên cứu, quý bạn đọc còn có vấn đề câu hỏi cần được trả lời hay có nhu cầu quan tâm đến các dịch vụ tư vấn do LVN Group gửi tới, vui lòng truy cập địa chỉ trang web sau đây: https://lvngroup.vn/ để được tư vấn trả lời câu hỏi một cách chi tiết nhất.