Trong quá trình tiến hành tố tụng, để có thể giải quyết đưa ra quyết định, kết luận thì phải làm rõ những tình tiết trong vụ án. Mà ngoài làm rõ tình tiết vụ án thì phải dựa thêm vào các chứng cứ. Chứng cứ được thu thập từ nhiều nguồn như vật chứng, lời khai, lời trình bày… Trong đó lời khai của bị can, bị cáo đóng vai trò cần thiết trong nguồn thu thập chứng cứ. Lời khai khách quan, chính xác thì mới có thể nắm rõ tình tiết vụ án và đưa ra hướng giải quyết đúng đắn. Điều 98 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã quy định về lời khai của bị can, bị cáo. Để làm rõ nội dung quy định này, hãy theo dõi nội dung trình bày dưới đây của LVN Group.
1. Khái niệm lời khai.
Lời khai là lời trình bày của các đương sự có liên quan trong một vụ án hình sự. Các đương sự đó có thể là bị can, bị cáo, người bị hại, người bị tạm giữ, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trong vụ án hình sự.
Lời khai có thể do các chủ thể trên chủ động thực hiện như trường hợp người phạm tội tự thú, đầu thú trình bày những tình tiết liên quan đến việc họ bị nghi thực hiện tội phạm… Hoặc lời khai có thể trình bày bị động theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án nhằm phục vụ cho việc giải quyết vụ án một cách đúng đắn, khách quan.
Căn cứ theo hướng dẫn tại điểm b khoản 1 Điều 87 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì lời khai được coi là một nguồn để thu thập chứng cứ, và nội dung của lời khai chính là những chứng cứ cần thiết để có thể giải quyết vụ án một cách nhanh chóng, khách quan.
2. Căn cứ pháp lý.
Căn cứ vào quy định tại Điều 98 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, lời khai của bị can, bị cáo được quy định như sau:
“Điều 98. Lời khai của bị can, bị cáo
1. Bị can, bị cáo trình bày những tình tiết của vụ án.
2. Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án.
Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội.“
3. Lời khai của bị can, bị cáo.
Lời khai của bị can, bị cáo được quy định tại Điều 98 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Theo đó, bị can, bị cáo sẽ trình bày những tình tiết của vụ án, tức là lời khai của bị can, bị cáo ở đây được hiểu là lời trình bày những tình tiết của vụ án.
Lời khai của bị can được thể hiện trong biên bản hỏi cung, bản tường tình hoặc băng ghi âm, ghi hình được thực hiện trước Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát. Lời khai của bị cáo là lời trình bày, nội dung trả lời của bị cáo tại phiên tòa được ghi trong biên bản phiên tòa được thực hiện trước Hội đồng xét xử. Sở dĩ có sự khác biệt về việc ghi nhận lời khai của bị can, bị cáo như vậy vì theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 60 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự nên bị can tham gia tố tụng vào giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố. Còn bị cáo theo khoản 1 Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì bị cáo là người hoặc pháp nhân đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử nên bị cáo tham gia tố tụng ở giai đoạn xét xử.
Căn cứ theo hướng dẫn theo điểm đ khoản 1 Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì bị can và bị cáo là những người bị buộc tội. Do đó lời khai của họ đóng vai trò cần thiết trong việc chứng minh những vấn đề cần trả lời trong vụ án hình sự. Bị can, bị cáo là chủ thể của tội phạm nên là người hiểu trọn vẹn nhất, sâu sắc toàn diện hành vi phạm tội và vụ án. Do đó lời khai của bị can, bị cáo chính là nguồn chứng cứ mang tính chất đặc biệt, được quy định bởi địa vị pháp lý của họ trong tố tụng hình sự: Bị can, bị cáo là người biết rõ hơn ai hết mình có thực hiện tội phạm được không và nếu có thực hiện tội phạm, biết rõ về động cơ, mục đích thực hiện tội phạm và những tình tiết khác có liên quan.
Tuy nhiên, căn cứ theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 98 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì không phải nội dung nào của lời khai của bị can, bị cáo cũng có thể được coi là chứng cứ phục vụ cho việc giải quyết vụ án mà chỉ có những nội dung nào của lời khai mà phù hợp với những chứng cứ khác của vụ án thì mới được coi là chứng cứ.
Mặt khác, cũng theo hướng dẫn tại khoản 2 Điều 98 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì không được dùng lợi nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội.
Nguyên nhân để khoản 2 Điều 98 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 phải quy định chặt chẽ như vậy về lời khai của bị can, bị cáo. Vì xuất phát từ tình hình thực tiễn, có những vụ án, các bị can, bị cáo thông đồng khai ra những thông tin, tình tiết vụ án không chính xác để đánh lừa hướng điều tra của các đơn vị tiến hành tố tụng và các đơn vị điều tra để hòng thoát tội. Trong những trường hợp như vậy thì thông tin về những tình tiết vụ án do các bị can, bị cáo đưa ra không thể coi là chứng cứ, dù lời khai của các bị can, bị cáo là đồng nhất. Để khắc phục tình trạng này, thì cần phải kiểm tra, đánh giá kĩ lưỡng, khách quan nội dung thông tin về những tình tiết vụ án trong lời khai của bị can, bị cáo và phải đối chiếu với những chứng cứ khác của vụ án. Để từ đó có thể đưa ra quyết định xem có nên coi những nội dung đó là chứng cứ để phục vụ cho việc giải quyết vụ án được không.
Việc Điều 98 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định chặt chẽ về lời khai của bị can, bị cáo để đảm bảo nội dung của lời khai của bị can, bị cáo được coi là chứng cứ sẽ mang tính khách quan, chính xác để vụ án có thể được giải quyết đúng đắn, và bảo vệ được quyền lợi của các bên bị ảnh hưởng trực tiếp từ những quyết định đó như bị hại, nguyên đơn dân sự…
Trên đây là toàn bộ nội dung trình bày giới thiệu về nội dung quy định tại Điều 98 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Nội dung nội dung trình bày có giới thiệu về lời khai của bị can, bị cáo là gì và cách để xác định nội dung nào trong lời khai là chứng cứ phục vụ công tác điều tra. Nếu trong quá trình nghiên cứu, quý bạn đọc có vấn đề cần trả lời câu hỏi hay có nhu cầu quan tâm đến các dịch vụ tư vấn do LVN Group gửi tới, vui lòng truy cập địa chỉ trang web: https://lvngroup.vn/ để được tư vấn trả lời câu hỏi một cách chi tiết nhất.